ĐỀ THI GIỮA KÌ 1 NGỮ VĂN 8 KẾT NỐI TRI THỨC ĐỀ 5
A. PHẦN TRẮC NGHIỆM (4 điểm)
Cho ngữ liệu sau:
“ Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá đá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại, trời non nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta”
(Qua đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan)
Khoanh tròn vào chữ cái đứng trước câu trả lời đúng:
Câu 1. Bài thơ trên được viết theo thể thơ nào?
A. Thất ngôn tứ tuyệt
B. Thất ngôn bát cú
C. Lục bát
D. Song thất lục bát
Câu 2. Trong bài thơ có mấy từ láy?
A. 3
B. 4
C. 5
D. 6
Câu 3: Trong câu thơ “Lom khom dưới núi tiều vài chú/Lác đác bên sông, chợ mấy nhà” sử dụng biện pháp tu từ nào?
A. Biện pháp so sánh
B. Biện pháp nhân hóa
C. Biện pháp đảo ngữ
D. Biện pháp hoán dụ
Câu 4: Nội dung chính của bài thơ Qua đèo Ngang là?
A. Cảnh tượng Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút thấp thoáng có sự sống của con người nhưng hoang sơ
B. Thể hiện nỗi nhớ nước thương nhà, nỗi buồn thầm lặng cô đơn của tác giả.
C. Nỗi buồn thế sự của chủ thể trữ tình cô đơn, nhớ chồng
D. Cả A và B đều đúng
Câu 5: Tìm từ đồng nghĩa với từ “lác đác” trong câu “Lác đác bên sông, chợ mấy nhà”:
A. Lưa thưa
B. San sát
C. Hiu hắt
D. Mênh mông
Câu 6: Tìm từ đồng nghĩa với từ “lom khom” trong câu thơ “Lom khom dưới núi tiều vài chú”:
A. Lum khum
B. Thẳng đứng
C. Tiêu điều
D. Lênh khênh
Câu 7: Có mấy đại từ trong bài thơ trên?
A. 3
B. 4
C. 5
D. 6
Câu 8: Trong cụm từ “ta với ta”, hai từ “ta” là:
A. Hai từ đồng âm
B. Hai từ đồng nghĩa
C. Hai từ trái nghĩa
D. Tất cả các đáp án trên đều sai
B. PHẦN TỰ LUẬN (6 điểm)
Câu 1. (2 điểm)
Trong bài hát “Mang tiền về cho mẹ” của Đen Vâu có đoạn:
“Nếu không có mẹ, con cũng chỉ là đồ bỏ mà thôi
Sẽ không có nề có nếp, dù đặt mình lên cái chõ đồ xôi
Cái máy tính mà con thu âm mấy bài đầu, mẹ đổi bằng nhiều ngày đổ mồ hôi (ướt nhoè)
Giờ con đã đi làm và con kiếm tiền về, mẹ chỉ cần ngồi đó mà xơi (nước chè)
Ôi những ngày xám ngoét, gió liêu xiêu dáng mẹ gầy so
Có khi mẹ ngất giữa đường vì cả ngày chẳng có gì no
Mẹ không dám ăn, không dám mặc, không dám tiêu cũng chỉ vì lo (lo cho con)”
Viết 1 đoạn văn ngắn khoảng 15-20 dòng trình bày cảm nghĩ của anh chị về đoạn trích trên?
Câu 2. (4 điểm)
Có ý kiến cho rằng “Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”. Anh chị hãy phân tích bài thơ Thu điếu để làm rõ ý kiến trên.
Hướng dẫn trả lời:
A. PHẦN TRẮC NGHIỆM (4 điểm)
Câu 1 |
Câu 2 |
Câu 3 |
Câu 4 |
Câu 5 |
Câu 6 |
Câu 7 |
Câu 8 |
B |
B |
C |
D |
A |
A |
B |
A |
B. PHẦN TỰ LUẬN: (6,0 điểm)
Câu 1:
Đoạn trích trên là những suy nghĩ, tình cảm của tác giả dành cho người mẹ kính yêu của mình. Mẹ luôn tần tảo vì con, là người đặt những viên gạch đầu đời cho con. Nếu không có mẹ thì sẽ không có đứa con của ngày hôm nay. Nhờ mẹ mà con có nề nếp hơn, kỉ luật hơn. Tình yêu thương của mẹ dành cho con là vô bờ bến, luôn hi sinh vì con, chịu bao vất vả nhọc nhằn để con có cuộc sống tốt đẹp hơn. Mỗi đồ dùng của con đều do một tay mẹ mua, ngay cả chiếc máy tính để thu âm bài hát để con đi theo ước mơ của mình, mẹ cũng phải đổi lấy bằng sức lao động, bằng những giọt mồ hôi. Là một người mẹ nghèo nhưng luôn ủng hộ con đứa con mình viết nên những ước mơ. Bóng dáng người mẹ gầy so đang lao động giữa trời mưa, gió rét để kiếm tiền lo cho con thật khiến người ta xót xa. Thời tiết khắc nghiệt là thế mà mẹ nào đâu có dám ăn no chỉ vì để dành thêm chút tiền lo cho cuộc sống của con. Tình cảm của người mẹ dành cho con thật đáng quý biết bao. Tuy hoàn cảnh nghèo khó, thiếu thốn vật chất là thế nhưng người con đã không ngững cố gắng phấn đấu, đã biết sử dụng đồng tiền của mẹ đúng mục đích để rồi ngày hôm nay gặt hái được quả ngọt, trở thành người nổi tiếng, kiếm ra tiền báo hiếu cho mẹ. Qua dòng thơ “Giờ con đã đi làm và con kiếm tiền về, mẹ chỉ cần ngồi đó mà xơi” ta thấy được đôi chút sự tự hào của đứa con khi mà kiếm được tiền, nuôi được mẹ. Cả cuộc đời mẹ đã chịu nhiều khổ cực thì giờ đây mẹ đã có thể thành thơi, tận hưởng tuổi già.
Câu 2:
Nguyễn Khuyến sinh ra và lớn lên ở một vùng quê yên ả. Trừ hơn mười năm làm quan phải sống xa quê, còn lại phần lớn cuộc đời ông gắn bó với lũy tre làng Yên Đổ quê ông. Không những là một vị quan liêm khiết mà ông còn là một nhà thơ lớn của nước ta cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Thơ ông đậm đà tính dân tộc và mang một vẻ đẹp riêng. Có ý kiến cho rằng “Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”. Bài thơ “Thu điếu” sẽ cho ta thấy rõ được điều này.
Mùa thu vốn là đề tài muôn thuở, gần gũi và quen thuộc của các thi nhân. Ai làm thơ mà mỗi độ thu về lại chẳng có đôi câu để thổ lộ tâm tình mình qua những bức tranh thu. Nhưng trong lịch sử thơ ca Việt Nam quả cũng ít người có được nhiều bài thơ mùa thu nổi tiếng như Nguyền Khuyến. Từ cổ chí kim mùa thu vốn là đề tài muôn thuở gần gũi và quen thuộc của các thi nhân. Nhưng chỉ đến Nguyễn Khuyến, văn học mới thực sự trở về làng quê, về với người dân nơi thôn dã, mùa thu trong thơ của ông bình yên đến lạ. Nhà thơ Xuân Diệu ở một dịp khác cũng đã nhận xét: “Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là thơ Nôm, trong đó có bài Thu điếu. Có lẽ tình yêu quê hương, sự am hiểu tường tận về làng quê kết hợp với hồn thơ đằm thắm, tinh tế của tác giả đã sáng tạo nên những vần thơ bất hủ về mùa thu nơi thôn dã. Cùng viết về mùa thu, tiêu biểu cho cảnh thu, hồn thu của làng quê Việt Nam nhưng mỗi bài thơ lại có những vẻ đẹp khác nhau. Không vẽ nên toàn cảnh thu với bầu trời xanh ngắt, cao vời vợi, cần trúc khe khẽ đong đưa trước làn gió hắt hiu, sương khói lãng đãng phủ trên mặt ao hồ... như bài thơ Thu vịnh. Ở bài Thu điếu, ông lại gợi tả mùa thu trong một không gian nhỏ hẹp. Không khí êm đềm, tĩnh lặng. Mọi hoạt động cũng hết sức nhẹ nhàng. Tư thế ông cậu cũng như thu nhỏ và tan hoà vào cảnh vật xung quanh. Trong thế giới “ao thu” ấy, cái gì cũng nhỏ bé, nhẹ nhàng. Từ “một chiếc thuyền câu bé tẻo teo” đến làn sóng lăn tăn “gọn tí”, từ chiếc lá “sẽ đưa vèo” đến cái ngõ trúc lối nhỏ quanh co không một bóng người “khách vắng teo”. Đọc bài thơ, cả một vùng thôn quê yên ả hiện về. Đó chính là vùng quê hương của nhà thơ nói riêng và đồng bằng Bắc Bộ nói chung. Những làng quê ấy có rất nhiều ao, chuôm. Không lớn nhưng nước “trong veo”. Vào tiết thu khí hậu ở miền Bắc đã bắt đầu chớm lạnh, ngồi trên chiếc “thuyền câu bé tẻo teo” giữa ao thu “nước trong veo” ấy lại càng thấy lạnh lẽo hơn. Một chiếc lá vàng rơi cũng là hình ảnh rất thu.
Những chuyển động, âm thanh trong thế giới thu này thật nhẹ nhàng và chỉ càng gây ấn tượng về sự đọng kết, sự tĩnh lặng. Làn sóng biếc chỉ “gợn tí”. Lá vàng cũng “khẽ đưa vèo trong gió thu… Hai câu thực tả cảnh gần, hai câu luận tả canh cao, cảnh xa để hợp tạo thành bức tranh thu yên ả, đượm buồn. Chỉ ở mùa thu mới có “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” ấy. Cũng chỉ ở làng quê xứ Bắc đang độ thu mới có “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” ấy!
Bài thơ tả cảnh vật thân thuộc, đơn sơ và dung dị, đáng yêu của làng cảnh Việt Nam. Cái hồn đồng quê hiện lên rất rõ trong từng câu, từng chữ và trong âm điệu thơ. Trong thơ thu Nguyễn Khuyến ta không chỉ bắt gặp cảnh mà còn bắt gặp hình ảnh con người thi nhân. Nếu trong thơ ca trước đó, tính ước lệ, quy phạm khiến cho hình ảnh của tác giả thường mờ nhạt, khó có thể cụ thể giọng điệu cảm xúc thì ở bài thơ thu này, hình ảnh Nguyễn Khuyến hiện lên rất rõ. Trong Thu điếu là ánh nhìn của một người thi nhân với thú vui câu cá tao nhã. Song con người này cũng chẳng hề đánh động thêm gì cho bức tranh. Trái lại, tư thế và tâm tưởng của con người chỉ tạo thêm ấn tượng về sự ngưng đọng mà thôi.
Bài thơ thể hiện nét tài hoa của ngòi bút cụ Tam Nguyên, tiêu biểu cho hồn thơ dung dị, thẳm sâu, đầy chất trữ tình. Bạn đọc Việt Nam yêu thơ Nguyễn Khuyến, yêu quê hương thôn dã có lẽ một phần là từ bài thơ này. Bởi chẳng cần phải quay về ngày xưa đó mà vẫn có thể hòa mình vào tiết trời thu để rồi ngắm nhìn khung cảnh một cách chân thực nhất, yên bình nhất.