ĐỀ THI CUỐI KÌ 1 NGỮ VĂN 8 KẾT NỐI TRI THỨC ĐỀ 2
A. PHẦN ĐỌC HIỂU (4.0 điểm)
Cho ngữ liệu sau đọc và trả lời câu hỏi:
Kẻ thù lớn nhất của tất cả chúng ta là sự lười biếng. Nếu chúng ta không lười biếng thì mọi cái mà chúng ta trông thấy đều là cơ hội, bởi vì càng khó khăn cơ hội càng lớn. Tôi nghĩ rằng không lười biếng và phải dũng cảm, hai cái đấy tạo ra cơ hội. Các bạn đừng sợ. Khó khăn là thuốc kích thích để mỗi con người dũng cảm, sáng suốt và sống có lý tưởng. Mọi khó khăn là điềm báo tạo cơ hội.
Câu 1. (1.0 điểm) Theo tác giả, kẻ thù lớn nhất của chúng ta là gì? Các yếu tố tạo nên cơ hội là gì?
Câu 2. (1.0 điểm) Nêu nội dung chính của đoạn văn trên.
Câu 3. (2.0 điểm) Từ nội dung của đoạn văn, hãy nêu bài học mà em rút ra được để hoàn thiện mình.
B. PHẦN VIẾT (6.0 điểm)
Câu 1.(6.0 điểm) Nghệ thuật trào phúng được thể hiện thế nào qua tác phẩm Vịnh Khoa Thi Hương của tác giả Trần Tế Xương.
Hướng dẫn trả lời:
A. PHẦN ĐỌC HIỂU (4.0 điểm)
Câu 1:
- Kẻ thù lớn nhất của chúng ta đó là sự lười biếng
- Hai yếu tố tạo nên cơ hội là: không lười biếng và dũng cảm
Câu 2: Nội dung chính của đoạn trích trên đó chính là nói về các yếu tố để hình thành nên cơ hội.
Câu 3: Bài học em rút ra được sau đoạn văn trên là:
+ Con người luôn phải nắm bắt lấy cơ hội
+ Trong mọi hoàn cảnh dù là ngặt nghèo nhất sẽ luôn có một điềm báo cho cơ hội mà chúng ta nên nắm bắt
+ Sự lười biếng chính là cản trở che lấp đi cơ hội.
+ Cần phải loại bỏ sự lười biếng và phải thật dũng cảm để tạo ra cơ hội của chính mình.
B. PHẦN VIẾT (6.0 điểm)
Câu 1:
Trần Tế Xương (Tú Xương) được nhiều người biết đến với tác phẩm nổi tiếng Vịnh Khoa Thi Hương. Bài thơ này,Tú Xương vừa ghi lại cảnh “nhập trường”, vừa tả lại cảnh “lễ xướng danh” khoa thi Hương Đinh Dậu. Qua đó nói lên tâm trạng đau đớn, chua xót của ông, là nỗi đau nhục về mất nước như ngưng đọng uất kết lại thành tiếng thở dài, lời than và có cả những tiếng khóc nấc từ tận đáy lòng. Bài thơ này vừa thành công về mặt nội dung vừa thành công về mặt nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật trào phúng.
Nghệ thuật trào phúng là một loại đặc biệt của sáng tác văn học và đồng thời cũng là một nguyên tắc phản ánh nghệ thuật trong đó các yếu tố của tiếng cười mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa trương, hài hước,… được sử dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo, phản kháng… những cái tiêu cực, xấu xa, lỗi thời, độc ác trong xã hội.
Việc thi cử ngày xưa là của vua, của triều đình nhằm mục đích kén chọn kẻ sĩ tài giỏi, chọn nhân tài ra làm quan phò vua, giúp nước. Nhưng bây giờ đã thuộc về “nhà nước”, tức thực dân Pháp xâm lược. Việc thi cử vẫn còn thi chữ Hán và theo lệ cũ “ba năm mở một khoa” song đã cuối mùa. Và, kẻ chủ xướng là “nhà nước” - là chính phủ bảo hộ. Hai từ “nhà nước” đứng ở ngay đầu bài thơ như một lời mỉa mai về sự thoái vị của triều đình phong kiến trong việc tổ chức thi cử. Đồng thời cũng là lời thông báo về tính chất trào phúng của bài thơ.
“Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà”
Tác giả sử dụng từ “lẫn” để thể hiện sự ô hợp, hỗn tạp của kì thi này. Một kì thi tưởng chừng như bình thường nhưng lại có nhiều sự bất thường. Hai câu đề với kiểu câu tự sự có tính chất kể lại kì thi với tất cả sự nhốn nháo, thiếu nghiêm túc trong buổi giao thời. Hai câu thơ này cũng thể hiện thái độ mỉa mai, châm biếm kín đáo và cũng bộc lộ một nỗi buồn sâu lắng trong tâm hồn tác giả.
Tiếp đến là hai câu thực:
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa”
Khi nói đến một kì thì là ta sẽ liên tưởng đến những sự chuẩn bị chu toàn nhất nhưng ở đây thì hoàn toàn ngược lại. Người sĩ tử xuất hiện với dáng vẻ luộm thuộm, nhếch nhác “lôi thôi, vai đeo lọ”; quan trường thì ậm ọe, miệng thét loa tỏ vẻ ra oai, nạt nộ nhưng đó là cái oai cố tạo, giả vờ. Trường thi không còn là chốn tôn nghiêm nền nếp nữa, quá lộn xộn, quá ồn ào, khác nào cảnh họp chợ. Tuy chỉ với hai câu thơ ngắn gọn nhưng tác giả đã sử dụng khá nhiều nghệ thuật. Đầu tiên là đảo trật tự cú pháp kết hợp với nghệ thuật đối giữa “lôi thôi sĩ tử” và “ậm ọe quan trường” để gây ấn tượng nhếch nhác đáng buồn. Cùng với đó là việc sử dụng từ láy “lôi thôi, ậm ọe” để thể hiện cảnh trường thi nhốn nháo, phản ánh sự suy vong của một nền học vấn, sự lỗi thời của đạo Nho.
Bức tranh “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu” được tô đậm ở hai câu luận bằng hai bức biếm hoạ về ông Tây và mụ đầm. Các ông cử tân khoa, các ông tú mền, tú kép… phải cúi rạp mình xuống mà lạy ông Tây, lạy mụ đầm “váy lê quét đất”, “trên ghế, ngoi đít vịt”. Cái nhục của hàng vạn sĩ tử Bắc Hà không thể nào kể hết:
“Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến
Váy lê quét đất, mụ đầm ra”
Đây là một cuộc thi quan trọng của nhà nước ấy vậy mà lại phải tiếp đón trang trọng viên quan người Pháp đứng đầu bộ máy cái trị của tỉnh Nam Định và bà vợ ăn mặc quá lộ liễu, diêm dũa của ông ta. Đây là một sự phô trương về hình thức, không đúng nghi lễ của một kì thi. Cờ cắm rợp trời tưởng để đón ai hoá ra để đón tiếp dành cho “quan sứ”, lũ cướp đất nước ta, một nghi lễ cực kỳ long trọng. Việc đối giữa câu trên với câu dưới cũng tạo nên sắc thái trào lộng, mỉa mai, đả kích mạnh mẽ. “Cờ” đối với “váy”, “quan” đối với “mụ”, “rợp trời” đối với “quét đất”. Cái trang trọng của tên quan sứ bị hạ bệ ngay bằng chiếc váy của mụ đầm. Nhưng ẩn lấp sau câu chữ là giọng cười, lối cười, hương cười, sắc cười của câu thơ Tú Xương kế thừa được cái cười dân tộc trong ca dao, trong chèo, tuồng cổ. Hàm chứa tâm trạng đau đớn, nhục nhã, uất ức của tác giả. Khung cảnh ấy báo hiệu về một sự sa sút về chất lượng thi cử, bản chất của xã hội thực dân phong kiến.
Bài thơ có 8 câu thì 6 câu đầu vừa hiện thực vừa trào phúng, còn hai câu kết thực sự là nguồn mạch trữ tình như được chiết xuất ra từ những điều mắt thấy tai nghe, từ những nhố nhăng, lôi thôi, lộn xộn trong ngoài, trên dưới nơi trường Nam năm Đinh Dậu:
“Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”
Hai câu cuối này tỏ rõ thái độ mỉa mai, phẫn uất của nhà thơ với chế độ thi cử đương thời và đối với con đường khoa cử của riêng ông. Chữ “ngoảnh cổ” gợi tả một thái độ, một tâm thế không thể cam tâm sống nhục mãi trong đời nô lệ. Phải biết đau nỗi đau của đất nước. Phải biết nhục trong nỗi nhục nô lệ. Phải biết “ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”. “Cảnh nước nhà” là cái cảnh nhục nhã. Đó như một lời nhắn nhủ các sĩ tử về nỗi nhục mất nước. Nhà thơ hỏi người nhưng cũng chính là hỏi mình.
Bài thơ sử dụng ngôn ngữ có tính chất khẩu ngữ, trong sáng, giản dị nhưng giàu sức biểu cảm đồng thời sử dụng biện pháp nghệ thuật trào phúng nhằm ghi lại cảnh “nhập trường” vừa ghi lại cảnh lễ xướng danh qua đó nói lên tâm trạng đau đớn, chua xót của nhà thơ trước hiện thực mất nước.