ĐỀ THI CUỐI KÌ 1 NGỮ VĂN 8 CÁNH DIỀU ĐỀ 5
A. PHẦN ĐỌC HIỂU (4.0 điểm)
Cho ngữ liệu sau đọc và trả lời câu hỏi:
“Bạn biết chăng, thế gian này có điều kì diệu, đó là không ai có thể là bản sao 100% của ai cả. Bởi thế, bạn là độc nhất, tôi cũng là độc nhất. Chúng ta là những con người độc nhất vô nhị, dù ta đẹp hay xấu, tài năng hay vô dụng, cao hay thấp, mập hay ốm, có năng khiếu ca nhạc hay chỉ biết gào như vịt đực.
Vấn đề không phải là vịt hay thiên nga. Vịt có giá trị của vịt, cũng như thiên nga có giá trị của thiên nga. Vấn đề không phải là hơn hay kém, mà là sự riêng biệt. Và bạn phải biết trân trọng chính bản thân mình. Người khác có thể đóng góp cho xã hội bằng tài kinh doanh hay năng khiếu nghệ thuật, thì bạn cũng có thể đóng góp cho xã hội bằng lòng nhiệt thành và sự lương thiện.
Bạn có thể không thông minh bẩm sinh nhưng bạn luôn chuyên cần và vượt qua bản thân từng ngày một. Bạn có thể không hát hay nhưng bạn không bao giờ là người trễ hẹn. Bạn không là người giỏi thể thao nhưng bạn có nụ cười ấm áp. Bạn không có gương mặt xinh đẹp nhưng bạn rất giỏi thắt cà vạt cho ba và nấu ăn rất ngon. Chắc chắn, mỗi một người trong chúng ta đều được sinh ra với những giá trị có sẵn. Và chính bạn, hơn ai hết, phải biết mình, phải nhận ra những giá trị đó”.
(Bản thân chúng ta là những giá trị có sẵn - Phạm Lữ Ân)
Câu 1. (0.5 điểm) Em hãy xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên.
Câu 2. (0.5 điểm) “Thế gian này có điều kỳ diệu, đó là không ai có thể là bản sao 100% của ai cả”, em hiểu thế nào về quan niệm này?
Câu 3. (1.0 điểm) Điều kỳ diệu trong thế gian này mà đoạn văn đề cập đến có ý nghĩa gì với bản thân em?
Câu 4 (2.0 điểm) Hãy viết đoạn văn trình bày suy nghĩ của em về ý kiến: “Chắc chắn, mỗi người trong chúng ta đều được sinh ra với một giá trị có sẵn”.
B. PHẦN VIẾT (6.0 điểm)
Câu 1. (6.0 điểm)
Em hãy viết bài văn thuyết minh về tà áo dài Việt Nam.
Hướng dẫn trả lời
A. PHẦN ĐỌC HIỂU
Câu 1:
Phương thức biểu đạt chính: nghị luận
Câu 2:
Quan niệm của tác giả được hiểu như sau: Trong thế gian này không ai giống nhau hoàn toàn từ dáng hình bên ngoài đến năng lực, phẩm chất bên trong. Ai trong mỗi chúng ta cũng có những điểm mạnh mà người khác không có.
Câu 3:
Điều kì diệu mà tác giả đề cập có ý nghĩa đối với bản thân em:
+ Giúp ta tự tin vào chính mình để phát huy những giá trị vốn có của bản thân.
+ Từ chỗ hiểu giá trị bản thân ta sẽ hiểu được giá trị của những người xung quanh và thêm trân trọng họ.
Câu 4:
Có người cho rằng "Chắc chắn, mỗi người trong chúng ta đều được sinh ra với một giá trị có sẵn". Đây là một quan điểm rất là đúng và rất đáng để suy ngẫm. Mỗi người chúng ta sinh ra và lớn lên đều có giá trị riêng. Chúng ta, không ai giống ai, mỗi người đều mang trong mình những phẩm chất, những khả năng riêng biệt. Giá trị của mỗi người không chỉ nằm ở ngoại hình hay thành tích đạt được có lớn hay không. Nó còn phụ thuộc ở đạo đức, lòng nhân ái, sự sáng tạo, khả năng thích ứng và nhiều yếu tố khác nữa. Tuy nhiên, mỗi người chúng ta cần biết cách khai phá bản thân, tìm giá trị và phát triển giá trị của chính mình., Đôi khi, chúng ta có thể bị mắc kẹt trong những ràng buộc xã hội, áp lực từ gia đình hay những suy nghĩ tiêu cực về bản thân. Nhưng chỉ cần chúng ta tin tưởng bản thân mình, chúng ta có thể phát triển và thể hiện giá trị của mình một cách tốt nhất.
B. PHẦN VIẾT
Câu 1:
Phụ nữ Việt Nam hãnh diện về bộ áo dài của mình. Chiếc áo đã tôn vinh vẻ đẹp của họ. Chiếc áo là một trong những tinh hoa của cuộc sống và sinh hoạt của người Việt Nam. Từ ngàn đời nay, áo dài đã trở thành trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam.
Quê hương của chiếc áo dài là xứ Huế, ở đó có nhiều thợ may áo dài rất đẹp. Người dân Huế coi chiếc áo dài là một nét đẹp cổ truyền quý báu của cố đô. Áo dài được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau,màu sắc khác nhau tùy ý người mặc. Có người còn cầu kì hơn, may áo dài và quần xéo bằng hàng mỏng hai lớp trông thật yểu điệu. Người mặc sẽ rất hài lòng nếu chiếc áo dài ôm vừa thân hình mà lại dễ cử động. Áo dài được mặc trong những dịp long trọng và nghiêm trang như ngày lễ, tết, đám cưới, hội nghị,…
Áo dài được may theo đúng nghĩa đen của nó, dài từ cổ xuống dưới chân, cổ áo cao cài khuy chéo ngang. Khuy được tết bằng vải hoặc hạt trân châu. Áo gồm hai thân,dài suốt từ trên xuống gần chấm chân. Tay dài, không có cầu vai, may liền cổ như áo bà ba. Tà xẻ dài, khiến trong sinh hoạt dễ dàng mà tạo ra sự thướt tha,yểu điệu và mềm mại vô cùng. Áo dài thường đi liền với quần trắng. Với trang phục đó, người phụ nữ trở nên trang nhã và đài các.
Ngày nay, nữ sinh cấp ba xem áo dài là đồng phục và họ may cách tân. Thân áo bó sát, tà ngắn tạo nên nét tinh nghịch, đáng yêu của tuổi học trò. Trong thực tế sử dụng, người thợ không ngừng sáng tạo để áo dài phù hợp hơn, sử dụng thuận tiện hơn và đẹp hơn. Quần trắng thay bằng quần đồng màu với áo.
Vạt áo dài chấm chân hoặc ngắn hơn tùy ý thích và tùy vóc dáng người. Vạt áo may rộng xòe ra hay may hẹp nhỏ lại trông ngộ nghĩnh và trẻ trung. Rồi cổ cao, cổ thấp, thậm chí không cổ… tay dài rồi tay ngắn cho mát mẻ, dễ sử dụng. Các nhà tạo mẫu luôn đem áo dài làm đề tài sáng tạo của mình từ kiểu dáng, màu sắc, họa tiết… và luôn đem lại cảm giác bất ngờ và ưa thích đối với bạn bè trên thế giới.
Áo dài là thứ trang phục không thể thiếu được khi phụ nữ Việt Nam sang nước ngoài, nhất là các hoa hậu của chúng ta tham gia các kì thi quốc tế. Sự kín đáo, duyên dáng đầy e ấp, mặn mà của họ đã chinh phục được ban giám khảo kể cả những người khó tính nhất.
Dù ở bất cứ đâu, chiếc áo dài cũng được nâng niu, bảo trọng. Người nước ngoài sang Việt Nam chơi ai cũng sắm một bộ áo dài để thể hiện vẻ đẹp yêu kiều của mình với người thân và cũng bày tỏ tình cảm yêu quý, trân trọng bộ trang phục truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Chiếc áo dài đã tôn vinh vẻ đẹp cao quý của người phụ nữ Việt Nam. Dù xã hội ngày càng phát triển, trang phục ngày càng phong phú nhưng bộ quốc phục này luôn được giữ gìn như quốc hồn quốc túy của dân tộc. Ở đâu trên thế giới này có người Việt Nam thì ở đó có áo dài Việt Nam và chiếc áo dân tộc đó được nâng niu, yêu quý như một nét văn hóa đầy bản sắc riêng.