Sự phân bố rộng khắp của loài dê trên thế giới
Bài Làm:
Có thể phân biệt 2 nhóm: dê nhà và dê sống hoang dã.
- Dê nhà đã được thuần hóa từ khoảng 10.000 đến 11.000 năm về trước, được biết có lẽ đầu tiên ở vùng Cận Đông (Near East, Proche-Orient), gồm các vùng Tây Nam Á, vùng giữa Địa Trung Hải, Iran, v.v... Dê được nuôi trong chuồng trại hoặc nuôi thành đàn tùy theo vùng, tùy phương cách chăn nuôi của từng dân tộc, diện tích trang trại... Dê được chăn dắt đi tìm thức ăn hoặc được thả rong trong những khu vực riêng biệt, có hàng rào chắn để tránh không cho dê phá phách làm hư hại cây cối và hoa mầu chung quanh trang trại.
- Dê hoang dã sống từng đàn ở nhiều môi trường có những điều kiện khí hậu và địa hình khác nhau, được phân bố khắp nơi trên thế giới, từ những vùng đồng bằng, rừng rậm đến những vùng đồi núi, từ những vùng có khí hậu nóng bức như ở Phi Châu đến những vùng lạnh lẽo băng giá như ở Âu Châu.
Riêng ở lục địa Úc Châu, dê không phải là một loài động vật có tự nhiên (native fauna) trên lục địa này. Dê đã được du nhập vào lục địa Úc Châu (introduced mammal) từ Thế Kỷ thứ 19 (khoảng năm 1832 và 1833) theo những chuyến thuyền di dân đầu tiên của người Anh, cùng với một số gia súc, gia cầm và thú nuôi khác như trâu, ngựa, thỏ, mèo, chó, v.v... Dê được chăn nuôi chủ yếu để lấy sữa và thịt hoặc lấy lông.
Những đàn dê sống hoang dã trên lục địa Úc Châu ngày nay là những “con cháu” của những con dê đã thuần hóa được du nhập vào Úc, nhưng đã bị lạc đàn (đàn dê nuôi theo lối thả rong hoặc chăn dắt), vượt thoát từ những trang trại trong những vùng định cư của người da trắng, hoặc “bị bỏ rơi” khi người da trắng rời bỏ một số vùng định cư vì một lý do nào đó. Thí dụ từ khoảng năm 1861, những giống dê Angora và Cashmere được du nhập để lấy lông, nhưng việc chăn nuôi thất bại, nên những con dê này đã trở về lối sống hoang dã.
Ngày nay, những đàn dê sống hoang dã tập trung nhiều nhất ở Tiểu Bang Tây Úc, ở nhiều vùng phía Tây của Tiểu Bang New South Wales và một số vùng thuộc Tiểu Bang Nam Úc. Dân số của những đàn dê sống hoang dã đã lên đến khoảng từ 200.000 đến 350.000 con.
Trừ những vùng đầm lầy ngập nước, những vùng sa mạc khô cằn và những khu rừng mưa nhiệt đới, những đàn dê hoang dã trên lục địa Úc Châu sinh sống ở tất cả những môi trường sống có những điều kiện thuận lợi như có những hang, những hốc đá, những tảng đá hình mái che, v.v... là nơi trú ẩn, cũng như cây cỏ, rừng rậm là nguồn thực phẩm và những ao hồ là nguồn nước uống.
Vì là một loài thú ăn tạp, những đàn dê sống hoang dã có những ảnh hưởng rất lớn đối với thảm thực vật và môi trường thiên nhiên của lục địa Úc Châu. Thảm thực vật bị phá hủy dần, dẫn đến sự xói mòn đất đai, đặc biệt ở những vùng có khí hậu bán khô hạn (semi-arid climate). Những đàn dê sống hoang dã cũng có những ảnh hưởng rất lớn đối với những loài thú có tự nhiên trên lục địa Úc Châu (native fauna), vì có sự cạnh tranh sinh tồn giữa những đàn dê sống hoang dã và những thú rừng về thực phẩm, nước uống và nơi trú ẩn.