1. Nguồn gốc loài lợn
Dấu hiệu khảo cổ cho thấy lợn (heo) được thuần hóa từ loài hoang dã từ rất sớm vào khoảng 13.000 –12.700 TCN ở Cận Đông trong thung lũng Tigris được quản lý ở dạng hoang dã theo cách tương tự chúng được người New Guine chăn hiện nay. Các loài lợn (heo) khác đã được xác định sớm hơn 11.400 TCN ở Síp, chúng phải được du nhập từ đất liền tức là chúng được thuần hóa trong đất liền. Cũng có sự thuần hóa riêng biệt ở Trung Quốc diễn ra cách nay 8000 năm.
Trước đây, các nhà khảo cổ học dựa vào những di chỉ khảo cổ (chủ yếu là xương sọ) đã cho rằng lợn được thuần hóa vào khoảng 9000 năm về trước ở vùng mà ngày nay thuộc miền Đông Thổ Nhĩ Kỳ hoặc cùng khoảng thời gian này tại Trung Quốc.
Nhưng theo một nghiên cứu được tiến hành với sự hợp tác giữa các nhà di truyền học Mỹ và Thụy Điển, trong đó phân tích xu hướng phân bố và đồng dạng ADN của các giống lợn (700 con) trên thế giới, tổ tiên của lợn ngày nay được xác định là lợn rừng và quê hương của lợn rừng nguyên thủy này chính là vùng Đông Nam Á ngày nay. Sau khi được thuần hóa ở Đông Nam Á, lợn theo con người đến các vùng khác của lục địa Á Âu (Eurasia) và ra các đảo Thái Bình Dương. Lợn được tiếp tục thuần hóa nhiều lần ở nhiều vùng tại Trung Quốc, vùng Cận Đông và châu Âu.
2. Khái niệm về loài lợn
Lợn nhà là một gia súc được thuần hóa từ loài lợn rừng, được chăn nuôi để cung cấp thịt. Hầu hết lợn nhà có lớp lông mỏng trên bề mặt da. Lợn nhà thường được cho rằng là một phân loài từ tổ tiên hoang dã của chúng là lợn rừng, trong trường hợp này chúng được đặt tên sinh học là Sus scrofa domesticus. Một số nhà phân loại học cho rằng lợn nhà là một loài riêng và gọi tên chúng là Sus domesticus, và lợn rừng là S. scrofa. Lợn rừng đã quần hợp với con người cách đây 13.000–12.700 năm.
3. Phân loại lợn
Lợn thuần hóa hầu hết được xem là một phân loài của loài tổ tiên hoang dã của chúng, Sus scrofa theo Carl Linnaeus năm 1758, nên trong trường hợp này nó có tên chính thức là Sus scrofa domesticus. Năm 1777, Johann Christian Polycarp Erxleben xếp lợn thuần hóa là một loài độc lập với loài hoang dã, và được đặt tên là Sus domesticus, hiện vẫn được một số nhà phân loại học sử dụng.
4. Đặc điểm chung của loài lợn
- Chi Lợn là các loài động vật ăn tạp, chúng ăn cả thức ăn có nguồn gốc động và thực vật cũng như thức ăn thừa của con người. Trong điều kiện hoang dã, chúng là các động vật chuyên đào bới, tức là luôn dũi đất để tìm kiếm thức ăn. Lợn là động vật rất dễ huấn luyện, vì thế cùng với đặc tính đào bới và khứu giác rất nhạy của chúng nên ở một số nơi người ta còn dùng chúng để tìm nấm, đặc biệt là ở châu Âu. Ngoài ra, người ta còn nuôi heo mọi (một dạng của lợn ỉ Việt Nam) để làm động vật cảnh, đặc biệt là ở Mỹ.
- Một đàn lợn con thông thường có từ 6 đến 12 con. Tuy nhiên, trong điều kiện nuôi nhốt, thỉnh thoảng người ta thấy hiện tượng lợn mẹ ăn thịt các con sơ sinh của nó, có lẽ là do thiếu chất. Lợn có 44 răng, mõm và tai lớn, chân có 4 ngón, 2 ngón giữa lớn hơn và có lông cứng. Thời kỳ mang thai của lợn trung bình là 114 ngày.
- Lợn không có tuyến bài tiết mồ hôi, vì thế chúng phải tìm các nơi râm mát hay ẩm ướt (các nguồn nước, vũng bùn v.v) để tránh bị quá nóng trong điều kiện thời tiết nóng. Chúng cũng dùng bùn làm lớp bảo vệ để khỏi bị cháy nắng.
Không chỉ là một loài vật ục ịch ăn nằm cả ngày, lợn còn ẩn chứa nhiều điều thú vị khác. Hãy cùng lần lượt tìm hiểu từng khía cạnh của loài lợn:
Bài tập & Lời giải
Tìm hiểu về phân bố và thức ăn của loài lợn
Xem lời giải
Thực phẩm từ thịt lợn và lợi ích của thịt lợn
Xem lời giải
Trí thông minh gây bất ngờ của loài lợn
Xem lời giải
Con lợn và văn hóa của người Việt Nam