Nội dung ôn tập
Câu 1: Nét nổi bật của việc dùng từ trong câu thơ là:
- Từ láy nao nao, nho nhỏ, sè sè, rầu rầu vừa tả cảnh hoang vắng, buồn tẻ vừa tả tâm trạng buồn của chị em Thúy Kiều vào cuối ngày hội đạp thanh.
Câu 2:
- Lời dẫn trực tiếp trong đoạn trích là: “Mã Giám Sinh”; “Huyện Lâm Thanh cũng gần”; “Mua ngọc đến Lam Kiều”; “Giá đáng nghìn vàng. Dớp nhà nhờ lượng người thương dám nài!”.
- Nhận xét cách xưng hô và nói năng:
- Mã Giám Sinh: ăn nói cộc lốc, vô học, thái độ trịnh thượng.
- Bà mối: đưa đẩy, vòng vo, giả tạo.
Câu 3: a.
- Một lời dẫn trực tiếp là: Có lẽ tất cả các bà đều rất tốt, bà tớ ngày trước cũng rất tốt...
- Các lời dẫn gián tiếp là “ngày trước, trước kia, đã có thời...”’
- Những từ ngữ in đậm còn lại là lời kể, không phải là lời dẫn: Cuộc sống buồn tẻ của chúng; về những con chim tôi bẫy được đang sông ra sao và nhiều chuyện trẻ con khác; tôi kể chuyện cổ tích.
b. Nhân vật “thằng lớn” phải dùng từ có lẽ trong lời nhận xét của mình vì đó là suy nghĩ phỏng đoán, chưa chắc chắn là đúng hoàn toàn.
Câu 4: Nghệ thuật độc đáo trong các câu (đoạn) :
a. So sánh : Hai dãy Trường Sơn ví như hai con người (anh với em), như hai miền đất (Nam với Bắc), như hai phía (đông với tây) → sự gắn bó keo sơn mà không gì có thể chia cắt được.
b. Ẩn dụ : Sợi dây đàn để chỉ tâm hồn con người. Đó là một tâm hồn nhạy cảm biết rung động trước cuộc sống và cuộc đời...
c. Nhân hóa và điệp ngữ : tre được nhân hoá như người, điệp ngữ: tre, giữ, anh hùng,...để thấy vai trò của tre trong cuộc chiến đấu chống lại kẻ thù, bảo vệ độc lập của dân tộc.
Câu 5: Cách nói sử dụng phép nói quá là:
- đẹp tuyệt vời
- một tấc đến trời
- một chữ bẻ đôi không biết
- sợ vã mồ hôi
- cười vỡ bụng
- rụng rời chân tay
- tức lộn ruột
- tiếc đứt ruột
- ngáy như sấm
- nghĩ nát óc
- đứt từng khúc ruột.