Đề thi cuối kì 1 Ngữ văn 8 CTST: Đề tham khảo số 1

<p>Trọn bộ đề thi cuối kì 1 Ngữ văn 8 CTST: Đề tham khảo số 1 bộ sách mới Chân trời sáng tạo gồm nhiều câu hỏi ôn tập hay, các dạng bài tập phong phú giúp các em củng cố ôn luyện lại kiến thức thật tốt chuẩn bị tốt cho kì thi sắp tới. Tài liệu có kèm theo đáp án và lời giải chi tiết. Hi vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em đạt điểm cao. Thầy cô và các em kéo xuống để tham khảo ôn luyện</p>

ĐỀ THI CUỐI KÌ 1 NGỮ VĂN 8 CHÂN TRỜI SÁNG TẠO ĐỀ 1

A.     PHẦN ĐỌC HIỂU (5.0 điểm)

Cho ngữ liệu sau đọc và trả lời câu hỏi:

Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi:

“Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước chạm tiếng cười”

( Nói với con – Y Phương)

Câu 1 (1 điểm): Đoạn thơ trên trích trong văn bản nào? Tác giả là ai?

Câu 2 (1 điểm): Nêu nội dung chính của đoạn thơ

Câu 3 (1 điểm): Tác giả đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật gì trong đoạn thơ? Cho biết tác dụng của thủ pháp ấy.

Câu 4 (2 điểm): Viết đoạn văn ngắn (khoảng 5 – 7 câu) trình bày cảm nhận của em về vai trò của gia đình.

B. PHẦN VIẾT (5.0 điểm)

Câu 1.(5.0 điểm): Trong Một khúc ca Tố Hữu từng viết:

“Nếu là con chim, chiếc lá

Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh

Lẽ nào vay mà không có trả

Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”

Anh chị hãy viết một bài văn nghị luận trình bày quan điểm của mình về quan điểm “cho đi” và “nhận lại” trong cuộc sống.

Hướng dẫn trả lời :

A.   PHẦN ĐỌC HIỂU

Câu 1 :

Đoạn thơ trên trích trong văn bản Nói với con, tác giả Y Phương.

Câu 2 :

Nội dung chính của đoạn thơ : Đoạn thơ nói về khung cảnh gia đình ấm áp của đôi vợ chồng miền núi cùng đứa con nhỏ của mình, từ đó thể hiện niềm hi vọng, hạnh phúc đầm ấm cho một tương lai tốt đẹp.

Câu 3 :

Tác giả sử dụng biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác « chạm tiếng nói, tới tiếng cười » khiến tiếng cười, tiếng nói vốn là âm thanh vô hình trở nên cụ thể, hữu hình, giúp ta hình dung ở hướng nào gia đình cũng rộn rã tiếng nói, tiếng cười. => Gợi không khí gia đình đầm ấm hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ với đứa con thơ đầu lòng.

Câu 4 :

Lời thơ ngay từ đầu đã chạm đến sợi giây tình cảm gia đình sâu kín của mỗi con người nên tạo được sự đồng cảm, rung động sâu sắc đến độc giả. Nói với con về tình yêu thương của cha mẹ, về hạnh phúc gia đình, người cha muốn nhắc nhở con rằng gia đình chính là cái nôi êm dịu, là tổ ấm để con khôn lớn trưởng thành, vì thế con luôn phải trân trọng, nâng niu tình cảm gia đình ruột thịt, cội nguồn sinh dưỡng của mỗi người.

B.    PHẦN VIẾT

Câu 1 :

Thơ hay không chỉ giàu cảm xúc mà còn lấp lánh chất trí tuệ, lí trí, mang hàm nghĩa sâu xa. Tôi rất thích khi đọc đoạn thơ sau đây, rút trong bài Một khúc ca xuân của Tố Hữu viết vào tháng 12 năm 1977:

                                           Nếu là con chim, là chiếc lá

                                           Thì chim phải hót, chiếc lá phải xanh

                                           Lẽ nào vay mà không trả

                                           Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.

        Đoạn thơ đã gợi lên trong tâm trí tôi bao suy nghĩ, bao điều lí thú. Tác giả đã nêu lên một quan niệm sống tích cực, sống đẹp trong mối quan hệ nhân sinh: vay và trả, cho và nhận giữa cộng đồng đối với mọi người, nhất là thế hệ trẻ.

        Đoạn thơ đẹp, đẹp giản dị, đẹp hồn nhiên. Con chim và chiếc lá vừa là biểu tượng cho sự sống, vừa là hình tượng của ngôn ngữ thi ca: “Chim phải hót, chiếc lá phải xanh”. Chim hót vì sống theo bản năng, được sống, được bay lượn trong ánh sáng và bầu trời tự do. “Lá phải xanh”, lá được nuôi dưỡng bàng nước, bằng mầu mỡ của đất, bằng khí trời và ánh sáng. Được sống trong tự nhiên nên “chim phải hót, chiếc lá phải xanh”. Đó là quy luật của tự nhiên, quy luật của sự sống muôn đời và vĩnh hằng. Màu xanh của lá, tiếng hót của chim trời còn là vẻ đẹp của thiên nhiên, đem lại vẻ đẹp kì diệu của sự sống

        Từ chim hót, lá xanh, nhà thơ nói đến vay và trả, cho và nhận, đó là quy luật của cuộc sống xã hội, của con người. Nói một cách khác, là quan niệm sống, đạo lí sống. “Vay mà không trả là vong ân bội nghĩa, đó là cách hành xử của những kẻ “ăn xổi ở thì”, của loại người bất nhân bất nghĩa. Hai tiếng “lẽ nào” là một lời khẽ nhắc: không nên làm như thế, không được ứng xử như thế.

        Có vay và có trả là đúng đạo lí. Vay và trả mang hàm nghĩa chịu ơn, mang ơn và đền ơn đáp nghĩa: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguổn", “Ai ơi. bưng bát cơm đầy/ Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng?”, là vay là trả. Trong xà lim máy chém, trên đường bước ra pháp trường của thực dân Pháp, người chiến sĩ cách mạng vẫn ngẩng cao đầu, vẫn hiên ngang, tự hào nhắc nhở mình, động viên mình:

                                           Đã vay dòng máu thơm thiên cổ

                                           Hãy trả ta cho mạch giống nòi.

        Qua mấy nghìn năm đằng đẵng, lớp lớp con người Việt Nam từ thế hệ này qua thế hệ khác đã đem mồi hôi và xương máu để xây dựng và bảo vệ nơi chôn nhau cắt rốn của mình, làm nên giang sơn gấm vóc, ngày thêm vẻ vang, ngày thêm giàu đẹp. Ai cũng cảm thấy nghĩa vụ thiêng liêng đối với Tổ quốc đè nặng đôi vai, gắng sức vươn lên đem tài trí góp sức cùng đồng bào “trả” món nợ cùa tổ tiên, ông cha mà mình đã “vay”, đã nhận

                                           Đất là nơi Chim về

                                           Nước là nơi Rồng ở

                                           Lạc Long Quân và Âu Cơ

                                           Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

                                           Những ai đã khuất, những ai bây giờ

                                           Yêu nhau và sinh con đẻ cái

                                           Gánh vác phần người đi trước để lại

                                           Dặn dò con cháu chuyện mai sau

                                           Hằng năm ăn đâu làm đâu

                                           Cũng biết cúi đầu nhớ ngàv giỗ Tổ..

                                                (Đất nước - Nguyễn Khoa Điểm)

        Khép lại đoạn thơ là một lời nhắn gửi về đạo lí làm người. “Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”. Trong văn cách, “cho” là cống hiến, dâng hiến, là phục vụ. “Nhận” là hưởng thụ. Trong cuộc sống thời bình, đem mồ hôi, đem công sức làm ra nhiều của cải,. góp phần làm cho dân giàu nước mạnh là “cho”. Thời kháng chiến, tất cả mọi miền hậu phương đều hướng về tiền tuyến, thi đua “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”; hàng vạn nam nữ thanh niên ào ào ra trận, quyết tâm “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Hàng ngàn sinh viên Ưu tú “xếp bút nghiên theo việc đao cung’’ để chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Có biết bao chiến sĩ, đồng bào đã “cho ", đã “hiến dâng”, đã “phục vụ”, đã hi sinh đề giành chiến thắng. Nào ai đã đắn đo, là “chỉ nhận riêng mình”.

        Một chữ “cho” bình dị mà chứa đựng biết bao tốt đẹp. Lúc đói rét thì nhường cơm sẻ áo. “lá lành đùm lá rách”; lúc hoạn nạn thì chung lưng đấu cật, đồng cam cộng khổ. Vì ai cũng biết sống đẹp, đã biết “cho” nhau tình thương, san sẻ, tương thân tương ái. Có “cho”, có san sè, có đồng cảm mới được sống hạnh phúc trong tình người rộng lớn, trong lòng đồng bào, đồng chí. Một chữ “cho" trong bài thơ Bầm ơi của Tố Hữu ngợi ca tình quân dân cá nước, ngợi ca lòng mẹ Việt Nam chắc nhiều người còn nhớ:

 

Xem thêm các bài Đề thi ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo, hay khác:

Dưới đây là danh sách Đề thi ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo chọn lọc, có đáp án, cực sát đề chính thức theo nội dung sách giáo khoa Lớp 8.

Lớp 8 | Để học tốt Lớp 8 | Giải bài tập Lớp 8

Giải bài tập SGK, SBT, VBT và Trắc nghiệm các môn học Lớp 8, dưới đây là mục lục các bài giải bài tập sách giáo khoa và Đề thi chi tiết với câu hỏi bài tập, đề kiểm tra 15 phút, 45 phút (1 tiết), đề thi học kì 1 và 2 (đề kiểm tra học kì 1 và 2) các môn trong chương trình Lớp 8 giúp bạn học tốt hơn.