BÀI 16: KHỞI NGHĨA LAM SƠN (1418 – 1427)
1. MỘT SỐ SỰ KIỆN TIÊU BIỂU CỦA KHỞI NGHĨA LAM SƠN
a) Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa
- Sau khi đánh bại nhà Hồ, nhà Minh đặt Đại Ngu thành quận Giao Chỉ và chia thành các phủ, huyện để cai trị. Nhà Minh thực hiện chính sách dùng người Việt trị người Việt, bóc lột và đàn áp nhân dân ta tàn bạo, đặt ra nhiều thứ thuế nặng nề, bắt dân ta đổi theo phong tục người Minh, huỷ diệt văn hoá nước ta.
- Trong bối cảnh ấy, nhân dân đã nổi dậy chống quân Minh, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi (1407 - 1409), Trần Quý Khoáng (1409 - 1414) thu hút được nhiều lực lượng tham gia, song cuối cùng đều thất bại.
- Nghe tin Lê Lợi chuẩn bị khởi nghĩa, nhiều người yêu nước từ các nơi về hội tụ, trong đó có Nguyễn Trãi.
- Năm 1416, Lê Lợi cùng 18 hào kiệt đã tổ chức Hội thể ở Lũng Nhai (Thanh Hoá), quyết tâm đánh đuổi giặc Minh.
- Đầu năm 1418, Lê Lợi tự xưng là Bình Định Vương, truyền hịch kêu gọi nhân dân đứng lên đánh giặc cứu nước.
b) Những năm đầu của cuộc khởi nghĩa (1418 – 1423)
- Trong những ngày đầu khởi nghĩa, căn cứ nhiều lần bị bao vây. Nghĩa quân gặp rất nhiều khó khăn, phải ba lần rút lên vùng núi Chí Linh (huyện Lang Chánh, Thanh Hoá), có lúc chỉ còn hơn 100 người.
- Để khắc phục khó khăn, Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương tạm hoà với quân Minh, tranh thủ thời gian tìm phương hướng mới, củng cố lực lượng. Việc ngoại giao với quân Minh do Nguyễn Trãi đảm trách.
c) Giai đoạn mở rộng hoạt động và giành những thắng lợi đầu tiên (1424 – 1425)
- Để gỡ thế bị bao vây, Nguyễn Chích hiến kế tiến vào đánh chiếm Nghệ An làm căn cứ, từ đó mở rộng giải phóng Tây Đô (Thanh Hoá) và Đông Quan.
- Cuối năm 1424, nghĩa quân giải phóng Nghệ An, sau đó giải phóng một vùng rộng lớn từ Thanh Hoá đến đèo Hải Vân.
d) Khởi nghĩa toàn thắng (1426 – 1427)
- Những sự kiện tiêu biểu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giai đoạn 1426-1427 :
+ Tiến quân ra Bắc: Tháng 9 - 1426, Lê Lợi và bộ chỉ huy quyết định tiến quân ra Bắc. Nghĩa quân đi đến đâu cũng được nhân dân ủng hộ, thắng nhiều trận lớn. Quân Minh phải rút vào thành Đông Quan cố thủ.
+ Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động:
-
Tháng 10 - 1426, Vương Thông dẫn viện binh đến thành Đông Quan và mở cuộc tấn công vào quân chủ lực của nghĩa quân ở quanh thành.
-
Ngày 7 - 11 - 1426, quân ta mai phục và chặn đánh địch ở Tốt Động - Chúc Động. Quân Minh thất bại nặng nề, nghĩa quân giải phóng nhiều đất đai và siết chặt vây hãm thành Đông Quan.
+ Chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang:
-
Tháng 10 - 1427, Liễu Thăng và Mộc Thạnh chỉ huy 15 vạn viện binh theo hai đường Quảng Tây, Vân Nam tiến vào nước ta. Nghĩa quân tổ chức phục kích tại ải Chi Lăng (Lạng Sơn), Liễu Thăng bị giết tại trận.
-
Sau đó, nghĩa quân liên tiếp giành thắng lợi tại Cần Trạm, Phố Cát và Xương Giang (Bắc Giang).
-
Lê Lợi sai người mang ấn tín và thư báo tin Liễu Thăng tử trận cho Mộc Thạnh (đang đóng ở vùng biên giới tỉnh Lào Cai ngày nay). Quân giặc vô cùng khiếp sợ, vội vàng rút về nước.
+ Hội thề Đông Quan:
-
Nghĩa quân vừa tăng cường siết chặt vòng vây các thành còn lại vừa khéo léo dụ hàng Vương Thông và các tướng lĩnh quân Minh.
-
Ngày 10 - 12 - 1427, bên bờ sông Hồng, Lê Lợi và Vương Thông dẫn đầu hai phái đoàn tham gia Hội thề Đông Quan, chấm dứt chiến tranh. Đầu tháng 1 - 1428, quân Minh rút hết về nước, đất nước hoàn toàn giải phóng.
- Việc dụ hàng quân Minh và tổ chức Hội thề Đông Quan thể hiện:
+ Kế sách đánh giặc tài tình, sáng tạo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi.
+ Tinh thần nhân đạo của nghĩa quân Lam Sơn, vừa mở đường cho quân địch rút hết quân về nước, vừa bảo toàn được lực lượng cho quân ta.
2. NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ
- Nguyên nhân thắng lợi:
+ Nhân dân ta luôn nêu cao tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí và quyết tâm giành lại độc lập cho dân tộc. Toàn dân đã đồng lòng đoàn kết chiến đấu, đóng góp của cải, lương thực, vũ khí, chịu nhiều gian khổ hi sinh để giành thắng lợi cuối cùng.
+ Đường lối đúng đắn, sáng tạo của bộ chỉ huy nghĩa quân, đứng đầu là những lãnh tụ xuất sắc như Lê Lợi và Nguyễn Trãi cùng những vị tướng tài như Nguyễn Chích, Nguyễn Xí, Nguyễn Biểu,...
- Ý nghĩa lịch sử: Là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc có tính chất nhân dân rộng rãi, chấm dứt hơn hai mươi năm đô hộ của nhà Minh, khôi phục nền độc lập, mở ra thời kì phát triển mới cho dân tộc.