- Bài mẫu 1: Kể lại chuyện cổ tích hoặc một truyện ngắn mà anh (chị) yêu thích - Con nuôi người khổng lồ
- Bài mẫu 2: Kể lại chuyện cổ tích hoặc một truyện ngắn mà anh (chị) yêu thích - Những ngôi sao xa xôi
- Bài mẫu 3: Kể lại chuyện cổ tích hoặc một truyện ngắn mà anh (chị) yêu thích - Sọ Dừa
- Bài mẫu 4: Kể lại chuyện cổ tích hoặc một truyện ngắn mà anh (chị) yêu thích - Cây tre trăm đốt
- Bài mẫu 5: Kể lại chuyện cổ tích hoặc một truyện ngắn mà anh (chị) yêu thích - Chiếc lá cuối cùng
Bài mẫu 1: Kể lại chuyện cổ tích hoặc một truyện ngắn mà anh (chị) yêu thích - Con nuôi người khổng lồ
Bài làm
Cuộc sống của tôi gắn liền với những câu chuyện cổ tích. Và câu chuyện làm tôi nhớ mãi là “Con nuôi người khổng lồ”. Có thể kể cho bạn nghe như sau:
Ngày xưa, ở một xứ nọ có ông vua nổi tiếng thông minh và đức độ. Dưới thời ông, muôn dân sống trong cảnh thanh bình. Hiềm một nỗi nhà vua tuổi đã cao mà vẫn chưa có con để truyền ngôi. Đã bao lần đức vua cầu nguyện thánh thần ban cho ông mụn con, nhưng đấng anh linh tối cao dường như không biết đến nỗi lòng của nhà vua. Cả hoàng hậu và đức vua đều vô cùng buồn rầu lo lắng.
Bấy giờ ở gần kinh thành có cô gái tên là Trắc-ken-ban-đi xinh đẹp lộng lẫy. Nàng vừa xinh tươi lại vừa nhân hậu nên ai cũng yêu quý.
Tiếng đồn đến tai nhà vua, Trắc-ken-ban-đi liền được tiến vào cung làm thứ phi. Khi đón nàng vào cung, vua cho xây một toà lâu đài đỏ thắm, bốn bề nạm ngọc, dát vàng thật rực rỡ.
Chẳng bao lâu Trắc-ken-ban-đi có mang. Nhà vua vô cùng mừng rỡ, ông yêu quý người vợ trẻ còn hơn cả mọi báu vật trên thế gian. Nàng thích gì nhà vua cũng chiều chuộng. Thật không may cho Trắc-ken-ban-đi. Việc nàng có mang khiến hoàng hậu rất căm ghét, sợ con của Trắc-ken-ban-đi sau này chiếm ngôi báu, nên hoàng hậu luôn nghĩ cách hãm hại nàng.
Sắp đến ngày sinh nở, Trắc-ken-ban-đi bỗn dưng rất thèm thịt hươu non. Không ngần ngại, nhà vua cùng một đoàn thợ săn vào rừng săn hưu. Nhà vua đi được vài hôm thì Trắc-ken-ban-đi trở dạ. Nàng sinh chín mươi chín đứa con trai và một cô con gái. Dịp may hiếm có, hoàng hậu liền sai một số cận thần đào một cái hố ở cuối vườn rồi lấy súc vật đạp chết đem chôn. Còn trăm đứa bé kia hoàng hậu cho vào cả thùng thả xuống sông.
Sau mấy ngày săn bắn vất vả, nhà vua và đoàn thợ săn không kiếm được con hưu nào, đành phải trở về hoàng cung. Vừa thấy bóng dáng nhà vua, hoàng hậu đã vội vã tâu:
-Tâu bệ hạ, Trắc-ken-ban-đi không đẻ ra người mà đẻ ra một lũ quái vật. Vừa lọt lòng mẹ chúng đã chết ngay, thiếp phải đem chôn ở góc vườn.
Nhà vua vừa buồn,vừa sợ. Được thể hoàng hậu lại xúc xiểm thêm:
-Trắc-ken-ban-đi đúng là phù thuỷ hiện hình. Nếu nhà vua không trừ khử, e hậu hoạ sẽ xảy ra cho cả vương triều.
Sợ tai họa giáng xuống, đức vua đành phải chiều theo ý của hoàng hậu. Có điều nhà vua không giết Trắc-ken-ban-đi mà sai lính nhốt nàng vào một nơi hẻo lánh, Trắc-ken-ban-đi không hiểu được mưu sâu của hoàng hậu, nên chỉ còn biết khóc than cho số phận hẩm hiu của mình.
Lại nói về chiếc hòm có trăm đứa trẻ trôi sông. Dòng nước chảy xiết đã ném chiếc hòm đó lên một doi cát nơi cửa sông. Vừa lúc đó có hai vợ chồng khổng lồ đi tới thấy chiếc hòm lạ, họ xúm nhau khênh lên bờ rồi mở ra xem. Cả hai đều kinh ngạc thấy một trăm đứa trẻ giống nhau như trăm giọt nước đang ngủ ngon lành. Đôi vợ chồng đưa cả trăm đứa trẻ về nuôi.
Thời gian thắm thoắt trôi, trăm đứa trẻ đã không lớn và xinh tươi lạ thường. Riêng cô gái út càng lớn càng đẹp. Sắc đẹp của cô khiến thánh thần cũng phải kinh ngạc. Hằng ngày các nàng tiên bay xuống dạy cô thêu thùa, may vá, đàn hát… Họ còn nói cho cô biết cha mẹ cô là ai, mẹ cô bị người ta hãm hại như thế nào.
Nhân một hôm vợ chồng khổng lồ đi kiếm ăn xa, cô gái liền đem câu chuyện kể lại cho các anh của mình nghe. Cả trăm anh em đều muốn đi cứu mẹ ngay, nhưng các nàng tiên khuyên hãy chờ dịp.
Một hôm nàng công chúa út xin bố mẹ nuôi rèn cho một trăm cái rìu để phát rừng. Có rìu, cô gái cùng chín mươi chín anh trai ngày ngày phát nương trỉa lúa, trồng ngô. Chả mấy chốc thóc lúa về đầy nhà, vợ chồng khổng lồ từ đó không phải đi xa kiếm ăn nuôi đàn con nữa.
Một đêm trăng thanh gió mát, các nàng tiên bay xuống báo cho cô gái biết đã đến lúc trăm anh em phải trở về cứu mẹ. Họ còn cho biết khi ra khỏi xứ sở của người khổng lồ, người đầu tiên hỏi cô gái làm vợ sẽ chính là cha đẻ của nàng.
Sau khi quyết định, cả trăm anh em phải nài nỉ mãi bố mẹ khổng lồ mới cho đi. Trước lúc tạm biệt các con, vợ chồng khổng lồ dặn:
-Dọc đường có con yêu tinh hiện thành người đàn bà một mắt gọi lại thì các con chớ có trả lời kẻo hoá đá tất đấy.
Riêng cô gái út được bố mẹ nuôi tặng cho một chiếc nhẫn thần tránh mọi tai hoạ.
Trước lúc các con lên đường, vợ chồng khổng lồ tặng trăm anh em một trăm con voi trắng để về quê hương xứ sở cho nhanh. Cô út trong bộ quần áo lộng lẫy, cưỡi voi trắng bảy ngà dẫn đầu cả đàn voi ra đi. Trăm anh em đi mãi, đi mãi tới một thung lũng núi non trùng điệp bao quanh. Trong thung lũng có rất nhiều người hoá đá. Đang lúc sợ hãi, cả trăm anh em nghe tiếng gọi tha thiết:
-Các người đi đâu đấy,chờ tôi với.
Quên khuấy lời bố mẹ dặn, cô gái út liền lên tiếng:
-Ai gọi chúng tôi đấy?
Tiếng cô vừa dứt, lập tức chín mươi chín anh trai cùng đàn voi hoá thành đá, lạnh ngắt. Nàng út may mắn có chiếc nhẫn thần nên cùng con voi không bị hoá đá. Cô khóc lóc lay gọi các anh, cô hối hận vì đã quên lời bố mẹ nuôi dặn. Vừa lúc đó có mụ đàn bà quái dị đi tới, một mắt của mụ ta mù hẳn. Còn mắt kia to như cái cái chén, đỏ trọc trông thật ghê sợ. Cô gái đoán ngay là mụ đàn bà vừa hại các anh mình. Sợ quá, nàng vội nấp sau một gốc cây to. Không ngờ từ đằng xa, mụ giơ cánh tay đầy lông lá túm lấy suối tóc óng mượt của nàng đem về.
Thấy cô gái xinh đẹp, yêu quái dạy cho cô các phép thuật. Riêng phép biến những pho tượng đá thành người thì mụ giấu biến. Một buổi tối mụ phù thuỷ đi đâu về muộn, mụ thấy cô gái đang nằm trên giường. Tưởng cô đã ngủ, mụ đổ ra nhà một đàn chuột cứng như đá, rồi cho tất cả vào nồi, sau đó niệm thần chú. Lập tức đàn chuột sống lại đuổi nhau chí choé. Lúc chuột bò tán loạn khắp nền nhà, mụ phù thuỷ liền niệm thần chú và lũ chuột bỗng cứng lại như đá, bất động. Nằm trên giường cô gái biết hết những ma thuật mà bấy lâu mụ yêu quái vẫn giấu nàng.
Sáng hôm sau khi mụ vừa ra khỏi nhà, cô liền đi theo, đọc thần chú khiến mụ cứng trơ như đá, bất động. Cô mừng rỡ chạy đến chỗ các anh đọc to câu thần chú. Lời cô vừa dứt, tất cả chín mươi chín anh trai cùng đàn voi sống lại. Cả trăm anh em lại tiếp tục lên đường về xứ sở của mình.
Thấy cô gái đẹp cưỡi voi dẫn đầu một đoàn trai tráng diễu qua kinh thành, dân chúng đổ xô ra xem. Tin lạ đến tai nhà vua, ông cho mời đoàn quý khách về triều để nghỉ chân. Trông thấy nàng út mắt sáng như sao, tóc dài như suối lại đối đáp thông minh sắc sảo, nhà vua ngỏ lời cầu hôn. Nhớ tới lời nàng tiên mách bảo, nàng đoán được đức vua chính là cha mình. Nàng vui mừng khôn xiết.
Sáng hôm sau nàng xin được gặp đức vua. Nàng nói với ông rằng nàng ta sẽ nhận lời cầu hôn nếu nhà vua thả người đàn bà bấy lâu bị sống nơi hẻo lánh. Nghe vậy, nhà vua liền chấp thuận lời thỉnh cầu của cô gái và ngày sau đó Trắc-ken-ban-đi được trả lại cuộc sống tự do. Vừa nhìn thấy mẹ, cả trăm anh em chạy tới ôm chầm khóc nức nở. Trước vua cha và mọi người, cô gái kể lại đầu đuôi câu chuyện. Nhà vua vô cùng xúc động và ân hận về việc làm của mình. Ông truyền lệnh nhốt hoàng hậu vào trong ngục tối vì những gì mà bà ta đã gây ra. Về phần Trắc-ken-ban-đi, bà được trả lại cuộc sống tự do và sống sum vầy, hạnh phúc bên các con của mình cho đến cuối đời.
Câu chuyện "Con nuôi người khổng lồ" mà tôi vừa kể cho các bạn nghe là một câu chuyện cổ tích nước ngoài mà tôi đã được bố tặng ngày sinh nhật 7 tuổi. Có lẽ câu chuyện còn mang quá nhiều yếu tố kì ảo, nhưng đối với tôi, đó là cả một vùng trời sâu lắng, là món quá vô cùng ý nghĩa. Nó chứa đựng tuổi thơ, niềm hạnh phúc của tôi vì vậy đến tận bây giờ tôi vẫn yêu thích câu chuyện cổ tích này.
Bài mẫu 2: Kể lại chuyện cổ tích hoặc một truyện ngắn mà anh (chị) yêu thích - Những ngôi sao xa xôi
Bài làm
Những ngôi sao xa xôi là câu chuyện kể về ba cô gái: Thao, Phương Định và Nho trong cùng tổ trinh sát mặt đường. Công việc của họ là ngồi chờ trên cao điểm. Khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom. Công việc thật chẳng đơn giản chút nào. Rất gian khổ và gần kề ngay cái chết.
Họ chạy trên cao điểm cả ban ngày ngay bên cạnh những quả bom đang nằm chờ nổ. Nhưng họ anh dũng và vui vẻ. Họ đã quen với những vết thương, với đất bốc khói, không khí bàng hoàng và tiếng máy bay đang gầm lên ầm ĩ. Thần kinh lúc nào cũng căng lên như chão, tim đập nhanh, chân chạy mà biết chắc rằng xung quanh bom sắp nổ. Nhưng rồi khi xong việc, nhìn đoạn đường, họ thấy vui, thở phào nhẹ nhõm và sa ngay về cái căn hầm mát lạnh của mình. Đánh một hơi nước mát cho thật đã, xong thì tất cả nằm dài trên nền đất ẩm nghe ca nhạc hay có thể nghĩ lung tung.
Hôm ấy vào buổi trưa, không gian im ắng lạ. Phương Định ngồi dựa vào thành đá và khe khẽ hát. Cô mê hát, có khi bịa ra cả những lời hát ngớ ngẩn. Định người Hà Nội và là một cô gái khá xinh với hai bím tóc dày, mềm, cái cổ cao và đôi mắt đẹp. Nhiều anh lái xe quý mến thường gửi thư tán tỉnh cô.
Đang mơ màng suy nghĩ, Định bỗng giật mình. Có tiếng giục của Nho và chị Thao. Họ đã nhận ra tiếng máy bay trinh sát. Cả tổ đã rất quen với việc: cái sự im lặng là sự bất thường. Tiếng máy bay trinh sát và tiếng phản lực gầm gào theo sau.
- Sắp đấy! - Nho quay lưng lại, chụp cái mũ sắt lên đầu. Chị Thao vẫn thong thả nhai mấy chiếc bánh quy. Chị bình tĩnh đến phát bực nhưng lại hay sợ máu. Chị hay diêm dúa nhưng trong công việc, chị cương quyết và táo bạo vô cùng.
Chị Thao cầm cái thước trên tay Định, rồi nói: "Định ở nhà. Lần này nó bỏ ít, hai đứa đi cũng đủ", rồi kéo tay Nho, vác xẻng lên vai đi ra cửa.
Định ở nhà trực điện thoại. Lòng cô nóng như lửa đốt. Xung quanh chỉ thấy khói bom mù mịt và tiếng cao xạ nã nhau chan chát. Địch tấn công dữ quá nhưng cũng may các anh cao xạ, thông tin và công binh đã kịp chi viện cho ba cô gái.
Nửa tiếng sau, chị Thao về, bình thản mệt lả và cáu kỉnh. Đại đội trưởng đã có được thông tin. Anh tế nhị cảm ơn ba cô gái.
Nho cũng về, bình thản và ướt sũng. Cô vừa tắm ở dưới suối lên, đẹp và mát mẻ như một que kem trắng.
Cả tổ nghĩ ngợi một lúc rồi tối lại ra đường luôn. Họ đi phá bom trong cái không khí vắng lặng đến kinh người. Ba cô gái thao tác rất nhanh và thành thục. Hai mươi phút sau, một hồi còi, rồi hồi còi thứ hai nổi lên. Những tiếng bom nổ vang trời xé toang không gian yên lặng. Mùi thuốc 32 bom buồn nôn, đất đá rơi lộp bộp, tan đi âm thầm trong những bụi cây.
Thao và Định đã định ra về. Nhưng bất chợt họ phát hiện ra Nho đã bị thương. Hầm của Nho bị sập khi cả hai quả bom của chị cùng phát nổ.
Định và Thao đưa Nho về. Vết thương không sâu lắm nhưng bom nổ gần nên Nho bị choáng. Họ tự lo chăm sóc cho cô gái vì không muốn làm phiền đơn vị. Lát sau, Nho đã thiếp đi.
Hai cô gái ngồi yên lặng nhìn nhau. Họ đang nuốt những giọt nước mắt vào trong vì lúc này phải giữ sao cho cứng cỏi. Chị Thao hát, những giai điệu sai và lạc nhịp. Nhưng cần phải hát. Hát để quên đi và để vững tin hơn.
Có một đám mây, một đám nữa rồi thêm đám nữa kéo đến cửa hang. Bầu trời đen đi và cơn dông ào đến đột ngột như một biến đổi bất thường trong trái tim con người vậy. Ở rừng mùa này hay thế. Trời mưa. Nhưng là mưa đá. Định nhận ra và thích thú cầm một viên đá nhỏ thả vào lòng bàn tay của Nho, vui thích và cuống cuồng.
Mưa tạnh rất nhanh. Định bỗng thẫn thờ và nuối tiếc. Nhưng cô không tiếc những viên đá nhỏ. Cô đang nhớ về mẹ, về những ngôi sao to trên bầu trời thành phố, nhớ bà bán kem, nhớ con đường nhựa... cơn mưa đã vô tình đả xoáy mạnh vào những kỷ niệm trong tâm hồn của cô gái xa quê.
Bài mẫu 3: Kể lại chuyện cổ tích hoặc một truyện ngắn mà anh (chị) yêu thích - Sọ Dừa
Bài làm
Ngày xưa, có hai vợ chồng một lão nông nghèo đi ở cho nhà một phú ông. Họ hiền lành, chăm chỉ nhưng đã ngoài năm mươi tuổi mà chưa có lấy một mụn con.
Một hôm, người vợ vào rừng lấy củi. Trời nắng to, khát nước quá, thấy cái sọ dừa bên gốc cây to đựng đầy nước mưa, bà bèn bưng lên uống. Thế rồi, về nhà, bà có mang.
Ít lâu sau, người chồng mất. Bà sinh ra một đứa con không có chân tay, mình mẩy, cứ tròn lông lốc như một quả dừa. Bà buồn, toan vứt nó đi thì đứa bé lên tiếng bảo.
– Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp. Bà lão thương tình để lại nuôi rồi đặt tên cho cậu là Sọ Dừa.
Lớn lên, Sọ Dừa vẫn thế, cứ lăn lông lốc chẳng làm được việc gì. Bà mẹ lấy làm phiền lòng lắm. Sọ Dừa biết vậy bèn xin mẹ đến chăn bò cho nhà phú ông.
Nghe nói đến Sọ Dừa, phú ông ngần ngại. Nhưng nghĩ: nuôi nó thì ít tốn cơm, công sá lại chẳng đáng là bao, phú ông đồng ý. Chẳng ngờ cậu chăn bò rất giỏi. Ngày ngày, cậu lăn sau đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về nhà. Cả đàn bò, con nào con nấy cứ no căng. Phú ông lấy làm mừng lắm!
Vào ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm hết cả, phú ông bèn sai ba cô con gái thay phiên nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Trong những lần như thế, hai cô chị kiêu kì, ác nghiệt thường hắt hủi Sọ Dừa, chỉ có cô em vốn tính thương người là đối đãi với Sọ Dừa tử tế.
Một hôm đến phiên cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Mới đến chân núi, cô bỗng nghe thấy tiếng sáo véo von. Rón rén bước lên cô nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang ngồi trên chiếc võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Thế nhưng vừa mới đứng lên, tất cả đã biến mất tăm, chỉ thấy Sọ Dừa nằm lăn lóc ở đấy. Nhiều lần như vậy, cô út biết Sọ Dừa không phải người thường, bèn đem lòng yêu quý.
Đến cuối mùa ở thuê, Sọ Dừa về nhà giục mẹ đến hỏi con gái phú ông về làm vợ. Bà lão thấy vậy tỏ ra vô cùng sửng sốt, nhưng thấy con năn nỉ mãi, bà cũng chiều lòng.
Thấy mẹ Sọ Dừa mang cau đến dạm, phú ông cười mỉa mai:
– Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.
Bà lão đành ra về, nghĩ là phải thôi hẳn việc lấy vợ cho con. Chẳng ngờ, đúng ngày hẹn, bỗng dưng trong nhà có đầy đủ mọi sính lễ, lại có cả gia nhân ở dưới nhà chạy lên khiêng lễ vật sang nhà của phú ông. Phú ông hoa cả mắt lúng túng gọi ba cô con gái ra hỏi ý. Hai cô chị bĩu môi chê bai Sọ Dừa xấu xí rồi ngúng nguẩy đi vào, chỉ có cô út là cúi đầu e lệ tỏ ý bằng lòng.
Trong ngày cưới, Sọ Dừa cho bày cỗ thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập. Lúc rước dâu, chẳng ai thấy Sọ Dừa trọc lốc, xấu xí đâu chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Mọi người thấy vậy đều cảm thấy sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc lại vừa ghen tức.
Từ ngày ấy, hai vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau rất hạnh phúc. Không những thế, Sọ Dừa còn tỏ ra rất thông minh. Chàng ngày đêm miệt mài đèn sách và quả nhiên năm ấy, Sọ Dừa đỗ trạng nguyên. Thế nhưng cũng lại chẳng bao lâu sau, Sọ Dừa được vua sai đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà nói là để hộ thân.
Ganh tị với cô em, hai cô chị sinh lòng ghen ghét rắp tâm hại em để thay làm bà trạng. Nhân quan trạng đi vắng, hai chị sang rủ cô út chèo thuyền ra biển rồi cứ thế lừa đẩy cô em xuống nước. Cô út bị cá kình nuốt chửng, nhưng may có con dao mà thoát chết. Cô dạt vào một hòn đảo, lấy dao khoét bụng cá chui ra, đánh đá lấy lửa nướng thịt cá ăn. Sống được ít ngày trên đảo, cặp gà cũng kịp nở thành một đôi gà đẹp để làm bạn cùng cô út.
Một hôm có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống nhìn thấy bèn gáy to:
Ò… ó… o
Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Quan cho thuyền vào xem, chẳng ngờ đó chính là vợ mình. Hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Đưa vợ về nhà, quan trạng mở tiệc mừng mời bà con đến chia vui, nhưng lại giấu vợ trong nhà không cho ai biết. Hai cô chị thấy thế khấp khởi mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em rủi ro ra chiều thương tiếc lắm. Quan trạng không nói gì, tiệc xong mới cho gọi vợ ra. Hai cô chị nhìn thấy cô em thì xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ đi biệt xứ.
Bài mẫu 4: Kể lại chuyện cổ tích hoặc một truyện ngắn mà anh (chị) yêu thích - Cây tre trăm đốt
Bài làm
Ngày xưa có một chàng trai tên là Khoai đi ở nhờ cho nhà phú ông giàu có. Anh Khoai vốn khỏe mạnh, cường tráng, lại siêng năng chịu khó, hay lam hay làm, giỏi việc đồng áng nên phú ông muốn giữ anh lại để làm thật nhiều việc cho lão.
Rồi một hôm, phú ông gọi anh đến và dỗ ngon dỗ ngọt rằng:
-Anh cứ ở lại chịu khó làm việc, đừng quản nhọc nhằn, 3 năm nữa ta sẽ gả con gái duy nhất của ta cho anh.
Anh Khoai hiền lành, chân chất, nghe phú ông nói vậy thì mừng lắm. Hằng ngày anh thức khuya dậy sớm, làm lụng vất vả, chẳng mấy chốc nhà phú ông đã có nhà cao của rộng, thóc lúa phơi đầy sân, lợn gà đầy trong chuồng. Thời hạn 3 năm sắp đến, nhưng phú ông không giữ lời hứa với chàng trai cày, ngấm ngầm gả con gái cho một nhà giàu ở làng bên cạnh. Vào ngày cưới, ông bảo anh rằng:
-Con là người có công với gia đình ta. Con đã chịu thương chịu khó 3 năm và đã đến lúc ta thực hiện lời hứa của mình. Cơ ngơi ta cũng không thiếu thứ gì, bây giờ chỉ còn thiếu cây tre trăm đốt. Con hãy vào rừng tìm cây tre trăm đốt về cho ta, rồi ta sẽ gả con gái cho.
Anh Khoai vui mừng phấn khởi xách dao đi vào mừng. Anh đâu biết rằng, ở nhà, hai lão phú ông đang tất bật chuẩn bị cho lễ cưới, lão tự nhủ:
-Thằng này thật ngốc. Nó có đi quanh năm suốt tháng cũng chả bao giờ tìm được cây tre trăm đốt đâu.
Lại nói về anh Khoai hiền lành, vì quá tin lời lão phú ông, anh trèo đèo lội suối, đi hết cánh rừng này đến cánh rừng khác nhưng không thể tìm được cây tre trăm đốt, cây cao nhất mà anh tìm được cũng chỉ có đến năm mươi đốt. Buồn rầu và thất vọng, anh ngồi xuống đất và khóc. Thấy vậy, Bụt hiện lên và hỏi:
-Chàng trai, sao con lại khóc giữa chốn núi rừng hoang vu này?
Anh kể rằng mình phải đi tìm cây tre trăm đốt, nghe xong Bụt cười và nói:
-Bây giờ con đi tìm một trăm đốt tre mang về đây cho ta, ta sẽ chỉ cách cho con có được cây tre trăm đốt.
Chàng trai nghe lời Bụt nói, chặt đủ 100 đốt tre mang về Bụt nói:
- Giờ con hãy hô: “Khắc nhập khắc nhập”
Anh vừa hô thì ngay lập tức các đốt tre dính lại với nhau, tạo thành cây tre trăm đốt. Nhưng cây tre dài thế này thì làm sao mang về nhà được, Bụt liền chỉ tiếp:
- Con hãy hô khắc xuất khắc xuất thì 100 đốt tre sẽ rời ra như cũ.
Anh Khoai vui mừng bó 100 đốt tre lại và mang về nhà. Về tới nơi, lễ cưới đang được tổ chức linh đình, anh mới vỡ lẽ ra rằng mình bị lừa. Tức lắm, anh chỉ lặng lặng mang 100 đốt tre ra và hô khắc nhập khắc nhập. Lão phú ông thấy lạ ra xem, liền bị anh hô khắc nhập khắc nhập và cũng dính luôn vào cây tre. Lão thông gia cùng mọi người hò nhau gỡ cho lão ta thì lập tức bị dính vào theo. Hai lão nhà giàu khóc lóc thảm thiết, van xin chàng trai cày gỡ ra khỏi cây, lão hứa sẽ gả con gái cho anh. Lúc bấy giờ anh mới hô khắc xuất khắc xuất, tức thì cây tre cũng rời ra thành 100 đốt, hai lão nhà giàu cũng rời luôn khỏi cây tre.
Anh Khoai làm lễ cưới với con gái phú ông, kể từ đó hai người sống hạnh phúc bên nhau.
Bài mẫu 5: Kể lại chuyện cổ tích hoặc một truyện ngắn mà anh (chị) yêu thích - Chiếc lá cuối cùng
Bài làm
“Chiếc lá cuối cùng” của O- hen- ri là câu chuyện cảm động kể về tình yêu thương giữa những con người tuyệt vời trên thế gian. Chuyện xoay quanh ba nhân vật trung tâm là cụ Bơ- men, một họa sĩ già vẫn mong muốn hoàn thành được một tác phẩm hội họa đíhc thực cùng Xiu và Gionxi, hai cô họa sĩ trẻ đang lòng đầy đam mê.
Có lẽ cuộc sống của họ sẽ diễn ra phẳng lặng như ao hồ, nếu một ngày kia, cô họa sĩ nhỏ bé Gionxy không bị chứng viêm phổi ghé thăm. Còn trẻ và nhiệt huyết, trong mơ ước của Xiu và Gionxy còn bao nhiêu thứ muốn thử, còn bao nhiêu điều muốn làm, bao nhiêu thứ muốn vẽ, nhưng người khách không mời “ông viêm phổi” đã hung hăng đến và giẫm nát tất cả tương lai trước mắt Gionxy, ước mơ vẽ vịnh Naplo sẽ mãi mãi là mơ ước. Gionxy xuống tinh thần, là một cô gái trẻ đang khỏe mạnh, rơi vào tình trạng “không còn mấy ngày để sống nữa” thì ai cũng sẽ bang hoàng, tuyệt vọng và buông xuôi. Cô đã làm như vậy. Tâm lí của cô chấn đọng nhiều tới nỗi bác sĩ cũng cho rằng đó là một trong những nguyên nhân đẩy nhanh tốc độ nặng của căn bệnh. Xiu là bạn cùng phòng trọ với Gionxy và mỗi lần trao đổi xong với bác sĩ, cô chỉ còn biết thở dài. Gionxy đã xanh xao lại còn thẫn thờ hơn trong tâm trạng của một người đang cố tình chờ đợi cái chết, mọi sự an ủi, động viên của Xiu không tác động được điều gì đến Gionxy, cô đã không còn một tia hi vọng. Niềm an ủi duy nhất mỗi ngày của cô đó là nằm nhìn ra cửa sổ và đếm những lá thường xuân, khi ấy vào mùa đông, cây thường xuân già bên cửa sổ đã không còn nhiều lá. Mỗi ngày, cành cây lại trở nên trơ trịu thêm một chút và không cần đoán người ta cũng hiểu rằng chỉ vài ngày nữa, trên cây có lẽ chẳng còn chiếc lá nào. Và Gionxy đã nói với Xiu:
- Trên cây thường xuân khi nào chiếc lá cuối cùng rụng thì em cũng ra đi thôi.
Câu nói ấy như đánh sụp mọi hi vọng lấy lại tinh thần cho Gionxy của Xiu, cô chỉ còn biết thốt lên, gục đầu xuống lòng bạn mà khóc. Gionxy đã không còn biết đến hi vọng, cô mệt mỏi, chán ngán, và cô đặt cuộc đời mình vào chiếc lá thường xuân yếu ớt cuối cùng. Nhưng ngày lại qua ngày, một đêm cơn bão tuyết bất chợt ghé thăm một cách giữ dội khi phố, đêm ấy, nằm trong chăn ấm mà vẫn không khỏi rung mình bởi tiếng gió rút và tiếng cành cây rơi. Gionxy đã chắc rằng, những chiếc lá không thể hứng chịu được gì, nhưng rồi, sáng hôm sau khi con mắt chết của cô ra lệnh cho Xiu kéo rèm cửa lên để cô được khẳng định chiếc lá cuối cùng đã rơi thì một điều kì diệu đã xảy ra. Trên cành cây khẳng khia, trơ trịu, vẫn còn có một chiếc lá cuối cùng đang cố bám lấy. Đó là một chiếc lá vàng đã úa nhưng phần cuống vẫn còn nguyên màu xanh, cố bám cuống cách đất tầm sáu thước. Và ngày hôm sau, chiếc lá ấy vẫn như vậy khi trải qua thêm một đem bão tuyết. Gionxy nhìn chiếc lá và nhận ra sự ngu ngốc của bản thân, cô bắt đầu phấn chấn trở lại, vui vẻ hơn, muốn ăn hơn, muốn sống hơn và nghĩ về ước mơ khi khỏi bệnh. Cô nghĩ mình cần nghị lực như chiếc lá kia và cô đã thắng, không bao lâu, căn bệnh gục ngã trước sự lạc quan của cô. Cô khỏe lại.
Khi ấy, cô mới được Xiu nói cho biết một sự thật về chiếc lá kiên cường cuối cùng ia, nó không phải là chiếc lá thực mà là một kiệt tác của cụ Bơ- men. Cụ Bơ- men đã sáu mươi tuổi, là hàng xóm của hai cô gái và cũng là họa sĩ nghiệp dư, cả đời ông luôn khao khác vẽ được một bức tranh tuyệt diệu nhưng bao năm vẫn chưa thực hiện được mơ ước. Ông là một người tiếp xúc gần sẽ nhận thấy sự nhân hậu và dịu dàng, ông hiểu và khá thương hai cô gái trẻ, chẳn biết tự bao giờ, họ giống như tình thân. Biết được chuyện của Gionxy, cụ Bơ- men đã tự mình trong đêm mưa bão ấy, bắc thang thực hiện kiệt tác duy nhất và cuối cùng của cuộc đời mình, một chiếc lá thường xuân sinh động mang đầy nhựa sống. Sau đó cụ bị viêm phổi và mất. Cụ đã hi sinh minh để hoàn thành kiệt tác vị nhân sinh tuyệt vời và để cứu sống một cô họa sĩ trẻ. Quả thực đã không ai nhận ra đó là tranh vẽ vì nó sống động như tấm lòng của cụ và chan chứa tình người.
Câu chuyện mang theo những thông điệp nhân sinh cao cả sâu sắc được viết trên màu xanh của lá về tình yêu thương con người, yêu sự sống, về nghệ thuật và về niềm tin. Thật là đáng cảm động.