Nội dung bài soạn
Câu 1:
Những tiêu chí:
- Văn bản văn học là những văn bản đi sâu phản ánh và khám phá thế giới, tình cảm, tư tưởng và thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người.
- Văn bản văn học được xây dựng bằng ngôn từ nghệ thuật, có hình tượng, có tính thẩm mĩ cao, rất giàu hàm nghĩa và gợi nhiều liên tưởng, tưởng tượng cho người đọc.
- Văn bản văn học bao giờ cũng thuộc về một thể loại nhất định với những quy ước riêng, những cách thức riêng của thể loại đó.
Câu 2:
Lí do: nếu mới chỉ hiểu tầng ngôn từ mà chưa biết tổng hợp nên ý nghĩa của hình tượng, chưa hiểu các ý nghĩa hàm ẩn của văn bản thì chưa thể coi là đã nắm được nội dung tác phẩm gửi gắm những tư tưởng, tình cảm và thái độ của mình trước cuộc đời thông qua hình tượng. Mà hình tượng nghệ thuật của tác phẩm chính lại được hình thành từ sự khái quát của lớp nghĩa ngôn từ.
Câu 3:
Phân tích ý nghĩa một hình tượng:
Hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong thơ Chính Hữu, là một biểu tượng đẹp về người chiến sĩ thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Trong đêm phục kích giữa rừng, bên cạnh hình ảnh thực là súng, là nhiệm vụ chiến đấu tạo nên con người chiến sĩ thì cái mộng, cái trữ tình là trăng. Hình ảnh trăng tạo nên con người thi sĩ. Hình ảnh chiến sĩ, thi sĩ hài hòa với nhau trong cuộc đời người lính cách mạng. Hai hình ảnh tưởng là đốì lập nhau đặt cạnh nhau tạo ra ý nghĩa hòa hợp vô cùng độc đáo. Súng là chiến đấu gian khổ, hi sinh, là hiện thực. Còn trăng là tượng trưng cho hòa bình, gợi lên sự đẹp đẽ thơ mộng, dịu dàng và lãng mạn. Cả hai hình ảnh kết hợp hài hòa với nhau tựa như những người bạn tri kỉ, làm nên vẻ đẹp người chiến sĩ trong những tháng năm gian khó nhọc nhằn.
Câu 4:
- Hàm nghĩa của văn bản:
- Hàm nghĩa của văn bản văn học là khả năng gợi ra nhiều lớp ý nghĩa tiềm tàng, ẩn kín của văn bản văn học mà qua quá trình tiếp cận, người đọc dần dần nhận ra.
- Muốn nhận ra hàm nghĩa của văn bản văn học, người đọc cần đi qua các lớp: đề tài, chủ đề, cảm hứng chủ đạo ,...
- Hàm nghĩa của văn bản văn học không phải lúc nào cũng dễ hiểu và không phải lúc nào cũng hiểu đúng và hiểu đủ.
- Ví dụ: Văn bản Làng: Chọn đề tài nói về người nông dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Người nông dân yêu làng, yêu nước, trung thành với kháng chiến, cách mạng
Phần luyện tập
Câu 1:
(1) Văn bản: " Nơi dựa":
a) Đoạn có cấu trúc tương tự là: Câu mở đầu và câu kết
b) Hình tượng nhân vật gợi lên suy nghĩ cuộc sống:
- Người mẹ trẻ: dựa vào đứa con mới chập chững biết đi.
- Anh bộ đội: dựa vào cụ già bước run rẩy không vững.
(2) Văn bản: " Thời gian"
a) Đoạn thơ chia làm 2 phần:
- Bốn câu thơ đầu: sức tàn phá của thời gian.
- Còn lại : những giá trị bền vững tồn tại mãi với thời gian
(2) Văn bản " thời gian":
a. Hàm ý lần lượt:
- "thời gian qua kẽ tay": Thời gian trôi chảy từ từ, nhẹ, im, tưởng như yếu ớt
- " làm khô những chiếc là": Nó vừa là những chiếc lá cuộc đời trên cái cây cuộc sống mà khi thời gian trôi đi, sự sống cứ rụng dần như những chiếc lá
- " Kỷ niệm trong tôi/Rơi/ như tiếng sỏi/ Trong lòng giếng cạn": một cuộc đời và những kỉ niệm đều tàn tạ, đều bị thời gian xóa nhòa.
- "Riêng những câu thơ còn xanh/ Riêng những bài hát còn xanh" : cuộc sống vẫn có những điều tồn tại mãnh liệt với thời gian, nghệ thuật khi đã đạt đến độ kết tinh xuất sắc sẽ tươi xanh mãi mãi, bất chấp thời gian, không bao giờ bị xóa nhòa vùi lấp
- "Và đôi mắt em/ như hai giếng nước": hình ảnh "hai giếng nước" chứa đầy những kỉ niệm tình yêu, những kỉ niệm tình yêu sống mãi, đối lập với những kỉ niệm "rơi" vào "lòng giếng cạn" quên lãng của thời gian.
b. Qua bài thơ "Thời gian", Văn Cao muốn nói rằng: thời gian có thể xoá nhoà tất cả, chỉ có văn học nghệ thuật và tình yêu là có sức sống lâu bền.
( 3) Văn bản: " Mình và ta":
a) Quan niệm của Chế Lan Viên là do nhà văn luôn có sự đồng cảm với bạn đọc cũng như trong quá trình tiếp nhận tác phẩm, xuất phát từ nơi tận cùng "sâu thắm" từ đó tạo nên tiếng nói chung, là nơi gặp gỡ của tâm hồn, tình cảm con người.
b) Quan niệm trên của Chế Lan Viên đã được nhà thơ phát biểu theo cách của thơ gửi gắm vào hình tượng nghệ thuật và nghệ thuật chỉ có giá trị gợi mở chứ không bao giờ nói hết, nói rõ. Người đọc phải tái tạo lại, tưởng tượng thêm, suy ngẫm, phân tích để sao cho từ bếp "tro" tưởng như tàn lại có thể "nhen thành lửa cháy", từ "viên đá con" có thể dựng nên thành, nên luỹ, nên những lâu đài, cung điện nguy nga.