Nội dung bài soạn
Câu 1:
a. Đây là lời than thân của cô gái đang trong độ tuổi xuân thì. Họ khao khát hạnh phúc nhưng họ không tự quyết định được số phận và cuộc đời của mình. Bài ca dao là những ngậm ngùi, xót xa của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
b. Sắc thái riêng của mỗi bài ca dao được diễn tả bằng những hình ảnh so sánh, ẩn dụ khác nhau
- Bài ca dao 1: Họ tự ví mình như “tấm lụa đào’’ – hình ảnh ẩn dụ cho vẻ đẹp và phơi phới tuổi xuân – nhưng họ mang thân phận phụ thuộc, không thể tự quyết định hạnh phúc của mình. => vừa xót xa cho thân phận, vừa lo lắng, bất an cho tương lai của mình. Nỗi đau và nỗi lo đó được bộc lộ qua sự đối lập giữa hai dòng thơ: Thân em như tấm lụa đào (đẹp, hạnh phúc) /Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai? (đau xót, lo lắng).
- Bài ca dao 2: Hình ảnh củ ấu: Ruột trong thì trắng / vỏ ngoài thì đen hay chính là những phẩm chất, tính nết tốt đẹp trong người con. Bài ca còn là lời mời mọc da diết của cô gái, khẳng định cái chân giá trị, cái vẻ đẹp của mình cũng là nỗi ngậm ngùi chua xót cho thân phận người con gái trong xã hội cũ.
Câu 2:
Bài ca dao không mở đầu bằng: Trèo lên cây khế nửa ngày... (dùng lối đưa đẩy, gợi cảm hứng từ một sự việc bên ngoài). Lối mở đầu này cũng đã thành môtíp quen thuộc trong ca dao: Trèo lên cây bưởi hái hoa...
Từ "Ai" ở đây là đại từ, có thể là cha mẹ hai bên ngăn cản, là những hủ tục phong kiến,hay có khi là chính người tình… Câu ca như lời trách móc, vì lí do nào đó khiến tình duyên đôi lứa lỡ dở.
b.
Nhân vật trữ tình đã lấy hình ảnh thiên nhiên, vũ trũ là cái to lớn, vĩnh hằng để nói lên tình nghĩa con người bền vững, thủy chung.
- Hình ảnh so sánh : “Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời’’ thật đẹp nhưng cũng thật buồn. Sao Vượt chờ trăng nhưng trăng và sao Vượt chẳng bao giờ gần nhau được. Tình cảm của chàng trai cũng thế. Duyên kiếp có thể, và đã dở dang không thành nhưng tình yêu thì mãi mãi vẫn còn, không thể đổi thay. Hình ảnh sao Vượt chờ trăng giữa trời là ẩn dụ sự mỏi mòn chờ đợi, cái cô đơn của sự ngóng trông, nhưng chính vì thế, nó mới cao đẹp. Câu thơ như lời nhắn nhủ với người mình yêu, dù khó khăn, nhiều trở ngại nhưng tình cảm vẫn son sắt thủy chung.
Câu 3:
Các thủ pháp nghệ thuật được sử dụng:
- Bài ca dao này đã diễn tả tình cảm thương nhớ của lứa đôi yêu nhau một cách tinh tế, gợi cảm thông qua các biểu tượng "khăn", "đèn", "mắt". Ở đây, "khăn", "đèn" được nhân hóa, còn "mắt" là phép hoán dụ để nói lên nhân vật trữ tình. Mượn biểu tượng "khăn", "đèn", "mắt" cô gái kín đáo, ý nhị bộc lộ tình cảm thương nhớ của mình đối với người yêu.
- Cái khăn được nói đến đầu tiên và được hỏi nhiều nhất trong 6 dòng thơ (tức nửa bài ca). Đó là vật trao duyên, vật kỉ niệm gợi nhớ người yêu. Chiếc khăn chính là hình ảnh người con gái.
- Sáu câu thơ được cấu trúc theo lối vắt dòng láy lại 6 lần từ “khăn” ở vị trí đầu câu và láy lại 3 lần “khăn thương nhớ ai” như một điệp khúc, cùng với cách gieo vần (cả vần chân và vần lưng) tạo nên những láy âm trong thể văn bốn (ai và ắt) đã bộc lộ rõ nỗi niềm thương nhớ của cô gái.
Câu 4:
- Chiếc cầu - dải yếm là chiếc cầu do người con gái bắc cho người yêu mình trong sự ràng buộc hà khắc của lễ giáo phong kiến thời xưa. Nó táo bạo, mãnh liệt nhưng đằm thắm, đầy nữ tính bởi nó là cái dải yếm, cái vật cụ thể mềm mại luôn luôn quấn quýt bên thân hình người con gái
=> Đó là những cây cầu tình yêu độc đáo và đẹp nhất, và chỉ có tư duy nghệ thuật dân gian thì mới sáng tạo ra được một cái cầu như thế.
Câu 5:
- Muối và gừng là hai hình ảnh có thực trong đời sống (những gia vị trong bữa ăn). Gừng có vị cay nồng nhưng thơm, muối có vị mặn đậm đà.
- Từ hai ý nghĩa ấy, gừng và muối đã được chọn để biểu trưng cho hương vị của tình người trong cuộc sống - tình nghĩa thủy chung gắn bó sắt son.
- Tình nghĩa vợ chồng gắn bó keo sơn “nghĩa nặng tình dày’’, do vậy “có xa cách đi nữa cũng ba vạn sáu nghìn ngày mới xa’’, câu bát được cải biến thành 13 tiếng, nhịp thơ kéo dài càng làm tăng tính chất khẳng định về sự thủy chung son sắt của tình nghĩa vợ chồng, là một sự luyến láy vừa tạo ra tính nhạc cho câu, vừa khẳng định cái giá trị bền vững không phai của tình nghĩa vợ chồng. Cách nói ý nhị và sâu sắc vô cùng.
Câu 6:
Những biện pháp nghệ thuật mà ca dao thường sử dụng:
- Sự lặp lại mô thức mở đầu bài ca: Thân em như..., AI làm, Chiều chiều…
- Những hình ảnh trở thành biểu tượng: Cái cầu, bến nước, con thuyền, tấm khăn, ngọn đền, gừng cay - muối mặn,...
- Hình ảnh so sánh,ẩn dụ, nhân hóa lấy từ trong cuộc sống đời thường: tấm lụa đào..., củ ấu gai...
- Thời gian và không gian nghệ thuật có sức gợi cảm,
- Thể thơ: lục bát là thể thơ phổ biến nhất. Ngoài ra, còn có lục bát biến thể, vãn bối (4 chữ), song thất lục bát (có cả biến thể).
Phần Luyện tập
Câu 1:
1. Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng hạt vào vườn hoa.
2. “Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày’’
3. “Thân em như giếng giữa đàng
Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân’’
4. “Thân em như cá trong lờ
Hết phương vùng vẫy không biết nhờ nơi đâu’’
5. Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu
- Ba câu ca dao đầu là lời than về thân phận người con gái trong xã hội cũ, họ không được quyền tự do chọn lựa tình yêu, hạnh phúc cho mình. Tất cả là dựa vào số phận, may mắn hay khổ đau.
- Câu 4,5 nói về số phận nhỏ bé, tội nghiệp của người con gái trước những sóng gió, phong ba của cuộc đời.
Câu 2:
Những bài ca dao nói về nỗi nhớ người yêu:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than.
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai?
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai?
Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn trông sao sao mờ
Buồn trông con nhện giăng tơ
....
Bài ca dao về cái khăn:
Gửi khăn, gửi áo, gửi lời
Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa.
Nhớ khi khăn mở trầu trao
Miệng chỉ cười nụ biết bao nhiêu tình.
Nỗi nhớ của cô gái đã thành một nét đẹp trong tâm hồn của dân tộc: “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” (Nguyễn Khoa Điềm). Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm vừa lấy ý tứ từ sự thương nhớ của ca dao vừa lại khái quát lên một cấp độ cao hơn - câu thơ chính là một nét đẹp giản dị mà tinh tế sâu sắc của tâm hồn người Việt.