Phần tham khảo mở rộng
Câu 1:Trình bày những nội dung chính trong bài Vợ nhặt. Bài học nằm trong chương trình ngữ văn 12 tập 2.
Bài Làm:
A. Ngắn gọn những nội dung chính
1. Giới thiệu chung
- Tác giả
Kim Lân (1920-2007), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã Tâm Hồng ,huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh. Ông chỉ được học hết tiểu học, rồi vừa làm thợ sơn guốc, khắc tranh bình phong vừa viết văn.
Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn, ông thường viết về người nông dân trong xã hội cũ. Ông có những hiểu về phong tục và đời sống làng quê - đăc biệt là văn hoá sinh hoạt của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Dù viết về phong tục hay con người, trong tác phẩm của ông vẫn thấy thấp thoáng cuộc sống và con người làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời, lạc quan, chất phác, thật thà.
- Tác phẩm
Tác phẩm Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân in trong tập Con chó xấu xí (1962). Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết xóm ngụ cư - được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng bị giang dở và bản thảo bị thất lạc. Sau khi hòa bình lập lại (1954) ông dựa vào phần cốt truyện để viết lại truyện ngắn này.
2. Phân tích văn bản
- Nhân vật Tràng
Tràng sinh ra trong một gia đình nghèo, nhà chỉ có hai mẹ con thui thủi, ở trong xóm ngụ cư nghèo, làm nghề kéo xe thuê. Vẻ ngoài của Tràng xấu xí, không ưa nhìn. Trước khi nhặt được vợ, sự gặp gỡ giữa Tràng và thị chẳng có gì đặc biệt. Thâm chí, đó còn chẳng được gọi là một cuộc gặp gỡ hay một cuộc hẹn hò đúng nghĩa. Họ chỉ là những người lao động nghèo khổ, những người vật vờ đói khát trong thảm cảnh lịch sử. Cô dâu của Tràng đích thị là nạn nhân của cái đói. Chỉ tầm phơ tầm phào có hai bận như thế, Tràng và thị đã thành vợ thành chồng. Tràng thật sự thấy lo lắng cho cuộc hôn nhân quá đỗi bất ngờ. “Mới đầu anh Tràng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”. Nhưng sau đó, sự lo lắng của Tràng bắt đầu nhường chỗ cho hạnh phúc mới – hạnh phúc lứa đôi – dù là lứa đôi khốn khổ và bất hạnh. Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Sự thay đổi đó xuất phát từ tình yêu thương Tràng giờ đây trở thành người người đàn ông biết yêu thương, chăm lo cho gia đình.
- Nhân vật cụ Tứ
Cụ Tứ là một người mẹ nghèo khó, vất vả, cơ cực, lam lũ và đầy lo toan. Tâm trạng bà cụ Tứ khi biết con trai có vợ với cảm xúc buồn vui lẫn lộn, bà buồn vì thấy thương và xót xa cho con trai mình, người ta dựng vợ gả chồng cho con lúc gia đình ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì bổn phận làm mẹ màchẳng lo lắng cho con được để con phải đi nhặt vợ trong hoàn cảnh như này. Bà lo rằng liệu chúng nó có nuôi nổi nhau cơn đói khát này không. Bà cụ Tứ là hiện thân của nỗi khổ cuộc sống của xã hội cũ. Người mẹ ấy đã nhìn cuộc hôn nhân éo le của con thông qua toàn bộ nỗi đau khổ của cuộc đời bà. Bà lo lắng trước thực tế quá nghiệt ngã. Từ ngạc nhiên đến xót thương. Nhưng cũng chính bà là người nói nhiều nhất về tương lai. Bà muốn các con tin về một tương lai không quá xa vời. Bà là điển hình của người mẹ nông dân đôn hậu lòng yêu thương sâu sắc mà Kim Lân đã khám phá ra.
- Nhân vật người vợ nhặt
Nhân vật vợ nhặt là nạn nhân điển hình của nạn đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh. Là nhân vật vô danh, người vợ nhặt là đại diện chung của số phận của những người phụ nữ không may sinh ra trong hoàn cảnh khốn khổ. Người phụ nữ ấy không tên, không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Thế nhưng người vợ nhặt mang vẻ đẹp là người phụ nữ với lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo không Tràng là vì để được sống chứ không phải là lẳng lơ. Khát vọng sống mãnh liệt thúc giục thị phải tìm ra lối thoát cho hoàn cảnh thương tâm. Khi về đến nhà Tràng chính tình cảm yêu thương, sự đùm bọc sẻ chia trong cơn hoạn nạn đã khiến Thị mở lòng sống tốt hơn, ý thức sâu sắc hơn về bổ phận và trách nhiệm của mình.
B. Phân tích chi tiết nội dung bài học
1. Tóm tắt nội dung văn bản
Vợ nhặt là tác phẩm kể về thờ kì nạn đói năm 1045. Nhân vật Tràng là người nông dân nghèo, xấu xí, ế vợ lại dở hơi, làm nghề kéo xe bò thuê và nuôi một người mẹ già. Một hôm, chỉ vì một lời trêu đùa lúc làm việc mà Tràng dẫn về nhà một người phụ nữ đang lâm vào hoàn cảnh đói rách cùng đường. Tràng có vợ một cách nhanh chóng và đầy bất ngờ, chỉ vì câu nói đùa, và bữa ăn là bốn bán bánh đúc, người phụ nữ đó đã ưng thuận theo Tràng về mà không cần bất kì cái gì. Mẹ Tràng- bà cụ Tứ và cả cái xóm ngu cư vô cùng ngặc nhiên, lại còn là trong lúc nạn đói đang hoành hành, người chết nhiều. Bà cú Tứ đón nhận người con dâu với một tâm trạng buồn lo nhưng cũng vui mừng chúc phúc cho con, vừa hi vọng, chấp nhận mà không tỏ thái độ chê bai người phụ nữ đó. Vào buổi sáng đầu tiên đón con dâu, bà cụ Tứ chuẩn bị một bữa cháo kèm theo là nồi chè cám. Nhìn cảnh người phụ và mẹ dọn dẹp, quét tước và bữa cơm gia đình, Tràng tự hứa sẽ trở thành một người đàn ông có trách nhiệm hơn và thấy gắn bó với gia đình hơn. Tiếng trống thúc thuế vang lên, cùng lời kể về Việt Minh của vợ, trong đầu Tràng hiện lên hình ảnh người người cùng nhau, kéo nhau đi phá kho thóc Nhật.
2. Phân tích chi tiết văn bản
- Nhân vật Tràng
Tràng sinh ra trong một gia đình nghèo, nhà chỉ có hai mẹ con thui thủi, ở trong xóm ngụ cư nghèo, làm nghề kéo xe thuê.
a) Ngoại hình
Vẻ ngoài xấu xí, không ưa nhìn.
Dáng người thô kệch, cái cười khềnh khệch
Lưng Tràng như con gấu
Quai hàm bạnh ra
=> Vẻ ngoài của Tràng xấu xí, không ưa nhìn.
b) Diễn biến tâm trạng của Tràng
Trước khi nhặt được vợ
Trước khi nhặt được vợ, sự gặp gỡ giữa Tràng và thị chẳng có gì đặc biệt. Thâm chí, đó còn chẳng được gọi là một cuộc gặp gỡ hay một cuộc hẹn hò đúng nghĩa. Họ chỉ là những người lao động nghèo khổ, những người vật vờ đói khát trong thảm cảnh lịch sử. Cô dâu của Tràng đích thị là nạn nhân của cái đói. Chỉ tầm phơ tầm phào có hai bận như thế, Tràng và thị đã thành vợ thành chồng. Tràng hò chơi cho đỡ nhọc, Tràng mời thị bốn bát bánh đúc vì lời thất hứa và sự xót thương cho hoàn cảnh của Thị "Thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”
Tràng thật sự thấy lo lắng cho cuộc hôn nhân quá đỗi bất ngờ
“Mới đầu anh Tràng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”. Nhưng sau đó, sự lo lắng của Tràng bắt đầu nhường chỗ cho hạnh phúc mới – hạnh phúc lứa đôi – dù là lứa đôi khốn khổ và bất hạnh.
Tặc lưỡi, “chậc, kệ” => Thể hiện niềm khát khao hạnh phúc tổ ấm gia đình đã lớn hơn mọi nỗi lo lắng, sợ hãi về cái đói và cái chết.
Trên đường đưa vợ về nhà:
Trên đường về nhà, Tràng cảm nhận được niềm vui mới đang len lỏi trong trong tưng suy nghĩ. Thỉnh thoảng anh lại còn cười nụ một mình.Tràng rụt rè khi đi bên Thị, khi thì hắn đi sát người đàn bà, lúc lại lùi ra sau một tí, hai tay cứ xoa vào vai nọ vai kia. Tràng muốn nói bông đùa đôi câu nhưng lại cứ cảm thấy ngường ngượng.
=> Chỉ với vài nét phác hoạ, ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã cho người đọc thấy được diễn biến tâm lí chân thực, sinh động của Tràng. Một cuộc hôn nhân đã khơi dậy biết bao nhiêu cảm xúc thầm kín bên trong, bao nhiêu phẩm chất tốt đẹp chưa có điều kiện bộc lộ biến một con người giờ vô lo, vô nghĩ trở thành một người đàn ông chính chắn, trưởng thành.
Vẻ mặt của Tràng phớn phở, tủm tỉm cười một mình,mắt sáng lên lấp lánh, cái mặt vênh lên tự đắc với mình
Anh muốn mua dầu về thắp để khi thị về căn nhà của mình trở nên sáng sủa hơn dù chẳng có nhiều tiền.
Khi đưa Thị về đến nhà:
Ngượng ngịu, đứng tây ngây ra giữa đường nhưng đó chỉ là cảm giác thoáng qua. Tràng vẫn sung sướng tột bực, sung sướng đến mức không dám tin là mình đã có vợ - lại có vợ trong hoàn cảnh trớ trêu, éo le như thế nàyà, lo lắng không biết bà cụ Tứ có chấp nhận người vợ của mình hay không. Loanh quanh hết chạy ra ngõ đứng ngóng rồi lại chạy vào sân rồi lại nhìn trộm vào trong nhà.
Tràng Nhổ vu vơ một bãi nước bọt
Lúc bà cụ Tứ về Tràng reo lên như một đứa trẻ, lật đật chạy ra đón, tươi cười.
=> Tâm trạn vui sướng đến tột cùng của Tràng khi sắp được thông báo về người vợ của mình.
Sáng hôm sau Tràng thức dậy với cảm giác êm ái, lửng lơ như trong mơ bước ra, hạnh phúc vô bờ bến. Tràng cảm động khi thấy hình ảnh mẹ và vợ dọn dẹp lại nhà cửa, cảm động nghe tiếng chổi sàn sạt trên sân. Sự yêu thương nảy nở từ bên trong.
=> Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Sự thay đổi đó xuất phát từ tình yêu thương. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói không bị tha hoá, mất đi bản chất của bản thân.
3. Nhân vật bà cụ Tứ
a) Ngoại hình
Dáng người cụ Tứ lọng khọng
Vừa đi vừa húng hắng ho, vừa lẩm bẩm tính toán
=> Cụ Tứ là một người mẹ nghèo khó, vất vả, cơ cực, lam lũ và đầy lo toan.
b) Diễn biến tâm trạng của cụ Tứ
Tâm trạng bà cụ Tứ với cảm xúc buồn vui lẫn lộn, bà buồn vì thấy thương và xót xa cho con trai mình, người ta dựng vợ gả chồng cho con lúc gia đình ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì bổn phận làm mẹ màchẳng lo lắng cho con được để con phải đi nhặt vợ trong hoàn cảnh như này. Bà lo rằng liệu chúng nó có nuôi nổi nhau cơn đói khát này không. Bà cụ Tứ là hiện thân của nỗi khổ cuộc sống của xã hội cũ. Người mẹ ấy đã nhìn cuộc hôn nhân éo le của con thông qua toàn bộ nỗi đau khổ của cuộc đời bà. Bà lo lắng trước thực tế quá nghiệt ngã. Từ ngạc nhiên đến xót thương. Nhưng cũng chính bà là người nói nhiều nhất về tương lai. Bà muốn các con tin về một tương lai không quá xa vời. Bà là điển hình của người mẹ nông dân đôn hậu lòng yêu thương sâu sắc mà Kim Lân đã khám phá ra.
Bà ngạc nhiên, tỏ ý không hiểu bà không tin vào sự thật rằng Tràng đã có vợ.
Bà nhìn ra và hiểu và hiểu ra bao nhiêu cơ sự - bà tin là Tràng đã có vợ và người phụ nữ kia chính là con dâu của bà.
Bà cảm thấy ai oán, xót thương.
Bà khóc vì thương con, vì bà không làm tròn bổn phận của người mẹ.
Thế nhưng bà vẫn vui vẻ chúc phúc cho con và đón nhận nàng dâu mới với tất cả tình yêu thương, chở che.
Sáng hôm sau bà tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủm beo u ám của bà tươi tắn hẳn lên.
=> Qua đó thể hiện sự vui mừng, phấn khởi, hạnh phúc khi gia đình có một thành viên mới.
Trong bữa cơm sớm, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Cụ thể với những gà, lợn, ruộng, vườn,rồi nồi cháo cám là phương tiện tiếp năng lượng của bà truyền cho hai đứa con nồi cháo cám bà gọi là chè khoán và vừa múc cháo vừa khen "ngon đáo để cơ" ..
=> Bà đã thắp sáng nên sự lạc quan, yêu đời và niềm tin vào tương lai tươi sáng cho các con.
=> Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp nhờ bằng tình yêu thương. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.
- Nhân vật “người vợ nhặt”
Nhân vật vợ nhặt là nạn nhân điển hình của nạn đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh. Là nhân vật vô danh, người vợ nhặt là đại diện chung của số phận của những người phụ nữ không may sinh ra trong hoàn cảnh khốn khổ. Người phụ nữ ấy không tên, không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Thế nhưng người vợ nhặt mang vẻ đẹp là người phụ nữ với lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo không Tràng là vì để được sống chứ không phải là lẳng lơ. Khát vọng sống mãnh liệt thúc giục thị phải tìm ra lối thoát cho hoàn cảnh thương tâm. Khi về đến nhà Tràng chính tình cảm yêu thương, sự đùm bọc sẻ chia trong cơn hoạn nạn đã khiến Thị mở lòng sống tốt hơn, ý thức sâu sắc hơn về bổ phận và trách nhiệm của mình.
a) Ngoại hình
Khuôn mặt lưỡi cày xám xịt
Áo quần rách như tổ đỉa
Cái ngực gầy lép nhô lên
Một ngoại hình xấu xí, gầy gò.
b) Hành động và diễn biến tâm trạng của Thị
Lần đầu gặp Tràng Thị ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, liếc mặt, cười tít, sà xuống ăn một chặp bốn bát bánh đúc, ăn xong cầm đôi đũa quệt ngang miệng.
Lời nói của Thị thì chua ngoa, đanh đá giống như một cô nàng không hiểu chuyện.
=> Những hành động và lời nói của Thị bắt nguồn từ cái đói khiến người ta mất đi cả lòng tự trọng, sĩ diện.
Trên đường theo Tràng về nhà Thị rón rén, e thẹn, ngượng nghịu, chân nọ bước díu vào chân kia. Tâm trạng lo âu, băn khoăn, hồi hộp khi bước chân về "làm dâu ngà người".
=> Thị vẫn giữ được chút lòng tự trọng của một cô gái theo không về nhà.
Khi Thị về đến nhà:
Thị Đảo mắt nhìn xung quanh, nén một tiếng thở dài, nhếch mép, cười nhạt nhẽo
Ngồi mớm ở mép giường, tay vẫn ôm khư khư cái thúng con
=> Thị mang tâm trạng chông chênh, lo âu khi mới bước chân về làm dâu. Thể hiện cho một cô gái vẫn giữ được lòng tự trọng của người phụ nữ chứ không bị mất đi.
Sáng hôm sau Thị trở một người đàn bà hiền hậu đúng mực, vẻ chao chát, chỏng lỏn dường như biến mất.
=> Đó là sự thay đổi xuất phát từ tình thương. Ngoại hình, hành động, lời nói của thị là nạn nhân của cái đói, cái khổ. Song cái đói, cái khổ không làm mất đi ở thị vẻ đẹp tâm hồn của một người phụ nữ hiền hậu đúng mực, luôn khát kháo yêu thương, hạnh phúc.
3. Tổng kết
- Nội dung
Tình cảnh thê thảm của người nông dân VIệt Nam trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đó là hệ quả của sự tàn ác, vô nhân tính của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật. Dân ta lâm vào cảnh một cổ hai tròng áp bức do sự đê hèn, đốn mạt của thực dân Pháp. Qua đó tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít. Thể hiện biềm cảm thương sâu săc, chia sẻ của tác giả trước những đau đớn, mất mát mà người nông dân nghèo đang phải đối mặt trong thời Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân.
- Nghệ Thuật
Cách xây dựng tình huống truyện độc đáo giúp nhân vật xuất hiện mà bộc lộ hết những phẩm chất tốt đẹp của mình. Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, không kịch tính nhưng sự sắp xếp các chi tiết gây được sự hứng thú, tò mò cho người đọc. Bút pháp miêu tả tâm lí, thế giới nội tâm nhân vật . Ngôn từ gần gũi, giản dị mang sắc thái của người nông dân.