Đề bài: Nhóm học tập của bạn được ban biên tập đặc san của trường đặt viết cho chuyên mục Tôi tập làm nhà nghiên cứu một báo cáo về đặc điểm nội dung, nghệ thuật của một số thể loại văn học dân gian đã học. Sau khi thực hiện đề tài, viết báo cáo về kết quả nghiên cứu của nhóm.
Bài tham khảo 1:
1. Về thuật ngữ:
Cách gọi “Thần thoại Việt Nam” nhằm để giới hạn một biên giới hành chính của một quốc gia hiện đại để trình bày – có tính hồi cố – kho tàng thần thoại của nhiều dân tộc khác nhau ở Việt Nam (54 dân tộc và người Việt chiếm 90%) mà ở đó chưa thật sự có sự đồng nhất về hình thái kinh tế xã hội. Tuy nhiên, các dân tộc đã tồn tại khá ổn định trong chiều dài lịch sử, có nhiều mối quan hệ tiếp xúc về văn hóa và cội nguồn.
“Thần thoại Việt Nam” với thời kỳ phồn thịnh của nó đã một đi không trở lại Việc dựng được bức tranh chân thực, chính xác một cách tuyệt đối của thần thoại Việt Nam là một việc làm không thể. Tuy nhiên bằng sự nổ lực cùng tình yêu và lòng tự hào về vốn quý văn hóa dân gian Việt Nam nói chung và thần thoại Việt Nam nói riêng, các nhà nghiên cứu đã ít nhiều phác họa được Kho tàng thần thoại Việt Nam. Và để làm được điều này, một công việc tốn rất nhiều thời gian và tâm sức, các nhà nghiên cứu đã dựng lại từ nhiều nguồn tài liệu về dân tộc học và các loại hình nghệ thuật dân gian khác.
2. Nội dung của thần thoại Việt Nam:
2.1. Phản ảnh quan niệm và sự nhận thức về thế giới của người Việt cổ:
a. Hình dung về vũ trụ:
Do chưa có đủ điều kiện để nhận thức được đúng đắn, đầy đủ và chính xác về tự nhiên, về vũ trụ, người Việt cổ cũng như các dân tộc khác trên thế giới, trong thời kỳ thơ ấu, đã sùng bái tự nhiên, coi tự nhiên như một thế lực siêu nhiên mà ở đó thế giới thần linh tồn tại, chi phối và điều khiển mọi thứ (Thần Trụ trời, Thần Mưa, Thần Gió…). Bản chất các thần đều là những hiện tượng, những sức mạnh có thực trong thế giới tự nhiên được thần linh hóa một cách vô ý thức theo quan niệm của người nguyên thủy. Vì thế, chức năng của các vị thần trong thần thoại luôn phù hợp và tương ứng với các hiện tượng tự nhiên tồn tại trong vũ trụ. Từ đó, người Việt cổ quan niệm về không gian vũ trụ gồm nhiều tầng cạnh nhau, đan xen lẫn nhau. Có lẽ từ sự quan sát mặt đất, sông ngòi, rừng núi, biển cả, bầu trời…cộng với những sự tưởng tượng về những cái chưa biết tạo ra một sự hình dung khác lạ và độc đáo về vũ trụ như đã nói.
b. Hình dung về con người, loài người:
Tư duy nguyên hợp thần thoại là dùng con người để nhận thức tự nhiên và ngược lại, dùng tự nhiên để nhận thức mình. Điều này có liên quan đến các quan niệm thời nguyên thủy (như đã nêu ở phần trên), đặc biệt là vật tổ Tôtem. Lý giải nguồn gốc của con người theo tín ngưỡng Tôtem, motip quả bầu mẹ hoặc trứng thiêng sinh ra loài người hiện nay là một minh chứng tiêu biểu.
Trong đó, motip về Quả bầu mẹ là một bước phát triển cao hơn (Ở Việt Nam có hàng trăm dị bản về truyện Quả bầu từ Tây Bắc xuống Trung bộ)
2.2. Cuộc đấu tranh chinh phục tự nhiên và sáng tạo văn hóa, thể hiện ước mơ khát vọng của con người:
Khác với sự hiểu biết còn nhiều hạn chế, khát vọng ước mơ chinh phục tự nhiên của người xưa rất lớn lao, rất mãnh liệt và táo bạo. Cho dù nhận thức về tự nhiên của họ còn sơ sài, cách lý giải còn đơn giản và không ít sai lầm nhưng ít ra ta cũng nhận ra rằng người thời cổ rất quan tâm đến tự nhiên với bao nhiêu khao khát, băn khoăn, thắc mắc cần được giải tỏa. Trí tưởng tượng phong phú nhưng vô ý thức đã giúp họ thực hiện điều ấy một cách kỳ diệu. Một thế giới thần thoại được sáng tạo trong một niềm tin chân thành và tuyệt đối của người thời cổ. Và nói một cách nào đó, quá trình vươn lên tìm hiểu tự nhiên – đối tượng tác động trực tiếp và liên tục đến sự sinh tồn của họ – cũng đồng thời chính là quá trình đấu tranh chinh phục tự nhiên và tiếp theo là sáng tạo văn hóa. Vì thế, cái được phản ánh là hiện thực khách quan vẫn còn mờ nhạt nhưng những khát vọng, ước mơ chủ quan của con người thì rất thực, rất rõ ràng.
Truyện Thần Trụ trời giải thích về sự hình thành trời đất, vũ trụ – và tất nhiên là bằng sự tưởng tượng sai lầm, cái thế giới hỗn mang hiện ra rồi thay đổi dưới sự tác động của Thần Trụ trời, cũng có sông, có núi, có biển cả mênh mông, có ruộng đồng bát ngát…mà qua đó ta thấy rất rõ rằng người xưa đã sống, đã quan sát, tìm hiểu, để rồi lý giải theo cách riêng của mình với một khao khát hiểu biết mạnh mẽ, khoẻ khoắn.
Truyện Lúa Thần phản ánh ước mơ của cư dân trồng lúa nước, muốn có giống “lúa thần” cho năng suất phi thường và khi chín tự động bò về nhà cho người trồng đỡ phần vất vả. Phi thường nhưng giản dị, kỳ ảo mà hồn nhiên, đó là đặc điểm chung của sự thể hiện ước mơ và trí tưởng tượng của con người trong thần thoại.
3. Đặc điểm thi pháp:
Trước hết, ở phương thức phản ánh, thần thoại dùng phương thức tự sự. Ở thời kỳ nguyên thủy, khi mà người thời cổ chưa hề có ý thức làm nghệ thuật (nghệ thuật tự phát), thì thần thoại đã ra đời để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, khám phá và chinh phục thế giới tự nhiên. Vì vậy, không tránh khỏi so với các thể loại ra đời sau thần thoại như truyền thuyết, cổ tích… thì trình độ tự sự của thần thoại vẫn con thô sơ, đơn giản, non nớt. Tuy nhiên, bằng cách tiếp cận của thi pháp văn học dân gian, ta vẫn có thể thấy được một số đặc điểm thi pháp tiêu biểu của thần thoại, nhằm phân biệt với các thể loại khác, đặc biệt là truyền thuyết.
a. Cốt truyện:
Cốt truyện của thể loại thần thoại vẫn còn rất sơ sài đơn giản. Tuy gọi là “truyện” nhưng thật ra đến nay, đó chỉ là những “mẩu” có kết cấu lỏng lẽo mà qui mô và dung lượng còn rất nhỏ bé. Ví dụ các truyện Thần Mưa, Thần Gió, Thần Biển, Nữ Thần Mặt Trăng, Nữ Thần Mặt Trời…. Tất cả những truyện vừa nêu chỉ nhằm để giới thiệu nhân vật chính là thần Mưa, thần Gió, thần Biển….
về hình dáng, về công việc và những sai sót mà vì nó các vị thần đã vô tình gây ra thiên tai dưới trần gian. Đó cũng là cách để người xưa giải thích những hiện tượng tự nhiên này. Vì thế, truyện vẫn chưa có “truyện”. Truyện chỉ là những lời giới thiệu đơn thuần mà hầu như không hề có xung đột, mâu thuẫn, mối quan hệ với những nhân vật khác. Đơn giản bởi khi dân gian chỉ nhằm mục đích giải thích một cách vô cùng ngây thơ, chất phát các hiện tượng tự nhiên, họ không hề cố ý làm nghệ thuật để có ý định xây dựng một cốt truyện hoàn chỉnh. Niềm tin chân thành gởi vào những lời giải thích ấy chỉ dừng lại khi mục đích giải thích đã được làm thỏa mãn, bất kể có ảnh hưởng đến kết cấu hoàn chỉnh của một cốt truyện hay không. Và hiện tượng cốt truyện sơ sài đã trở nên phổ biến – đặc biệt là ở nhóm thần thoại suy nguyên.
Vì vậy có thể kết luận rằng, bản thân thần thoại, ra đời từ thời xa xưa nguyên thuỷ, chưa mang hình thức hoàn chỉnh của một cốt truyện. Ý thức xây dựng cốt truyện chưa có, người nguyên thủy chỉ nhằm mục đích giải thích và giải thích một cách rất đơn giản về tự nhiên mà thôi.
b. Nhân vật:
Như đã nêu trong phần khái niệm thần thoại, đơn vị cơ bản trong thần thoại là hình tượng “thần”. Thế giới của thần thoại là thế giới các vị thần. Và đương nhiên, nhân vật chính trong thần thoại là “ thần”.
Thực ra, nói cho chính xác hơn, nhân vật chính trong thần thoại chủ yếu là các hiện tượng, các sự vật trong tự nhiên được hình tượng hóa, nhân cách hóa và thần thánh hóa theo trí tưởng tượng của người nguyên thuỷ. Tên gọi của các thần hầu hết là tên của các sự vật hiện tượng ấy (Ví dụ: Mưa, gió, sấm, sét, mặt trăng, mặt trời…)
Có một điểm chung nổi bật trong khi nói đến các nhân vật chính trong thần thoại. Hình dáng của các thần hoặc không được miêu tả rõ ràng, hoặc chỉ có những nét thô phác. Nhưng tựu trung lại, nếu có, là dáng vẻ đồ sộ, kỳ vĩ tương xứng với các lực lượng siêu nhiên. Thần Trụ Trời thì “khổng lồ…chân thần dài không thể tả xiết” Thần Mưa “có thể giãn người dài ra hàng nghìn trượng”, Thần Biển có “thân hình rất to lớn, to lớn không thể nào ước lượng được”, Thần Sét thì mặt mũi rất đanh ác, tiếng quát tháo rất dữ dội…
Về tâm lý và tính cách, phần lớn các nhân vật đều không có hoặc không rõ nội tâm. Thần chỉ được miêu tả và khai thác ở “chức năng” nhất định nào đó. Các biểu hiện, các trạng thái tâm lý như vui, buồn, hờn, giận… nếu có, cũng chỉ để giải thích các hiện tượng khách quan như là qui luật tự nhiên. Chẳng hạn trạng thái tâm lý hay nhầm lẫn của thần Mưa. Không hút nước ở sông, biển lại hút nơi đồng ruộng cửa nhà làm hư hỏng, thiệt hại rất nhiều. Có lúc thần Mưa chỉ đi lo tưới nước cho những vùng hẻo lánh cách xa đại dương hàng vạn dặm mà quên hẳn các vùng đồng bằng ở sát ngay bờ biển. Tính cách ấy chỉ để nhằm lý giải các hiện tượng thiên tai mà thôi. Hay tính tình nóng nảy của thần Sét. Thần hay nổi cơn thịnh nộ và đã không ít lần vì thái độ nóng giận ấy mà đã có nhiều sinh mạng con người vô tội đã phải hy sinh….
c. Thời gian – không gian nghệ thuật:
Trong thần thoại, ý niệm về thời gian tuy đã có nhưng chỉ mới ở giai đoạn bắt đầu. Thời gian thần thoại chưa thật cụ thể, rõ ràng và chưa có tính xác định. Khảo sát thi pháp thời gian thần thoại, ta thấy phổ biến yếu tố thời gian vĩnh hằng, bất tử (Kiếu như “Thuở ấy chưa có thế gian, cũng chưa có muôn vật và loài người” “không biết là bao lâu”…)
Tương tự, không gian trong thần thoại là không gian vô tận. Các thần hoạt động đi lại trên không trung một cách tự do, không có nơi nào cố định (Thần Trụ trời có thể bước từ vùng này qua vùng nọ; Thần Mưa thường xuống hạ giới rồi bay đi, có thể rất xa, phun nước cho cả thế gian ăn uống…)
Người kể lẫn người nghe thần thoại đều không có nhu cầu biết đến thời gian và không gian cụ thể xác định vì đó không phải là điều mà họ quan tâm. Cái họ quan tâm khi nghe chuyện là những hiện tượng tự nhiên, sự có mặt của muôn loài có nguồn gốc xuất phát từ đâu, nó được kiến giải như thế nào qua lăng kính của trí tưởng tượng phong phú và cách giải thích nào tạo nên sức thuyết phục cao nhất. Sự quan tâm này trong quá trình diễn xướng và lưu truyền đã làm nên sự khác biệt rất cơ bản giữa thần thoại và truyền thuyết.
d. Yếu tố tưởng tượng trong thần thoại:
Yếu tố tưởng tượng là nét nổi bật trong thần thoại và là điều kiện để thần thoại tồn tại và có giá trị vĩnh hằng mặc cho sự khắc nghiệt của dòng chảy thời gian. Các Mác đã nói “ Thần thoại nào cũng chinh phục, chi phối, nhào nặn những sức mạnh tự nhiên trong trí tưởng tượng và bằng trí tưởng tượng. Thần thoại sẽ không còn nữa khi người ta đã thống trị được những sức mạnh ấy” (dẫn theo Hoàng Tiến Tựu – giáo trình CĐSP)
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là thần thoại chỉ đơn thuần là những câu chuyện kể hoang đường, không có thực. Thật ra, trí tưởng tượng của người xưa hoàn toàn dựa trên cơ sở hiện thực. Đọc thần thoại bằng một đôi mắt khác, ta sẽ nhận ra cuộc sống hiện thực của một thời xa xưa trong lịch sử loài người. Và bên cạnh việc phản ảnh hiện thực bằng trí tưởng tượng, thần thoại còn thể hiện yếu tố lãng mạn. Đó là khát vọng táo bạo muốn chinh phục tự nhiên bằng những khả năng kỳ diệu để hướng tới cuộc sống một cách tốt hơn. Và điều này là cơ sở cho sự tưởng tượng của nhân dân để tạo nên những hình tượng kỳ vĩ trong thần thoại.
(Nguồn tham khảo: Trần Tùng Chinh, Giáo trình văn học dân gian Việt Nam)
Bài tham khảo 2:
1. Khái niệm
- Sử thi là tác phẩm tự sự dân gian có quy mô lớn, sử dụng ngôn ngữ có vần, nhịp, xây dựng những hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng để kể về một hoặc nhiều biến cố lớn diễn ra trong đời sống cộng đồng cư dân thời cổ đại.
- Các dân tộc thiểu số nước ta hiện còn giữ được một kho tàng sử thi dân gian đồ sộ, có giá trị.
2. Đặc trưng
- Nội dung: Một thiên tự sự rộng lớn, thường kể về các sự kiện trọng đại trong quá khứ của một cộng đồng, biểu hiện toàn bộ đời sống văn hóa, lịch sử của cộng đồng, thể hiện quá trình vận động của tộc người đó qua các giai đoạn khác nhau.
- Nghệ thuật:
- Những câu chuyện kể văn xuôi xen lẫn văn vần.
- Nhân vật chính trong các sử thi thường là những người anh hùng có công lao với cộng đồng.
- Thời gian trong sử thi thường là thời gian của quá khứ; không gian trong sử thi thường là không gian chiến trận.
- Giọng điệu hào hùng, ngợi ca, thành kính và thiêng liêng.
- Sử dụng các yếu thành ngữ, tục ngữ, những từ ngữ cổ, hình thức nghệ thuật ngôn từ dân gian (phóng đại, ước lệ…)
3. Phân loại
Gồm 2 loại:
- Sử thi thần thoại:
- Kể về sự hình thành thế giới và sự ra đời của muôn loài, sự hình thành các dân tộc và các vùng cư trú cổ đại của họ.
- Ví dụ: Đẻ đất đẻ nước (Mường), Ẳm ệt luông (Thái), Cây nêu thần (Mnông)...
- Sử thi anh hùng:
- Kể về cuộc đời và sự nghiệp của các tù trưởng anh hùng.
- Ví dụ: Đăm Săn, Đăm Di, Xinh Nhã (Ê-đê), Đăm Noi (Ba-na)...
Bài tham khảo 3:
1. Khái niệm truyện cười
Cũng như những thể loại tự sự dân gian Việt Nam khác, truyện cười khá phong phú và đa dạng. Không thể không thừa nhận mối quan hệ khó phân định rõ ràng giữa truyện cười và một số thể loại tự sự dân gian khác như ngụ ngôn, cổ tích sinh hoạt (Điều này chúng tôi đã điểm qua khi đề cập đến thể loại cổ tích). Theo ông Hoàng Tiến Tựu, thuật ngữ truyện cười đã được giới nghiên cứu sử dụng như một thuật ngữ chuyên môn khoảng 4 thập kỷ nay để chỉ tất cả các hình thức truyện kể dân gian có tác dụng gây cười (như tên gọi của nó), lấy tiếng cười làm phương tiện khen chê và mua vui giải trí.
Nói đến những chức năng cơ bản như trên của truyện cười, thiết nghĩ cũng nên điểm qua một số tên gọi đi kèm theo chức năng ấy không thể tách rời. Đó là những thuật ngữ như truyện khôi hài, truyện tiếu lâm, truyện trào phúng, truyện châm biếm, đả kích, truyện Trạng… Tuy nhiên, nếu tiếp cận vào kho tư liệu phong phú của truyện cười, ta sẽ thấy mỗi một thuật ngữ vừa nêu, theo như tên gọi của nó, gắn với một tiểu loại truyện cười khác nhau.
Ví dụ như truyện khôi hài gắn liền với những truyện gây cười vô thưởng vô phạt, cười chỉ để cười, chất mua vui giải trí theo kiểu “một nụ cười mười thang thuốc bổ” chủ yếu để mang lại cho đời sống những niềm vui – có thể không sâu sắc – nhưng ít nhiều làm vơi bớt gánh nặng cơm áo nhọc nhằn của người dân lao động.
Truyện trào phúng, châm biếm, đả kích… thì đã đặt ra vấn đề phê phán. Tiếng cười vì vậy, không chỉ đơn thuần là tiếng cười giải trí mà đã có ý nghĩa xã hội hàm chứa bên trong. Nhưng như ý nghĩa của các từ châm biếm, trào phúng, đả kích cũng ít nhiều khác nhau về tính chất, mức độ, đối tượng. Có thể hiểu rằng tiểu loại này sẽ nhắm đến nhiều nội dung cười khác nhau, theo mức độ từ thấp đến cao, đối tượng từ cùng giai cấp đến các lực lượng giai cấp đối kháng. Đó có thể là những điều chưa tốt, chưa đẹp trong nội bộ nhân dân mà dân gian cười để xây dựng một nền tảng đạo đức hoàn thiện. Đó cũng có thể là những thói hư tật xấu của một bộ phận đại diện cho chế độ phong kiến – như những quái thai mà xã hội phong kiến đã đẻ ra. Ở đây là hình ảnh của các thầy đồ, thầy bói, thầy lang và cả thầy chùa. Tiếng cười như sự mỉa mai sâu cay mà thâm thúy nhằm gạn đục khơi trong để thanh lọc xã hội, trở về với những chuẩn mực rực rỡ lấp lánh của một thời đại phong kiến hoàng kim trong quá khứ. Và không dừng ở đó, tiếng cười của nhóm truyện này còn vạch mặt chỉ tên cả những ngôi vị đáng trọng nhất của cái gọi là xã hội phong kiến đương thời – bọn quan lại sâu dân mọt nước, bọn vua chúa bất tài vô dụng…
Còn nói đến truyện tiếu lâm thì có người chiết tự chữ Hán để giải thích rằng đó là “rừng cười” (Tiếu là cười, lâm là rừng?). Nhưng trong quá trình diễn xướng của loại truyện này, mỗi khi người kể bắt đầu cất lời cho “truyện tiếu lâm” của họ, tức là người nghe chuyện sắp được nghe những câu chuyện mà tính “tục” rất đậm đặc và tính chất “tục” của truyện trở thành thủ pháp chính để gây cười.
Thuật ngữ truyện Trạng là nói đến danh từ dùng theo thói quen của nhân dân. Nghĩa của thuật ngữ này cũng khá phong phú. Dựa vào các tài liệu nghiên cứu, ta có thể khái quát thành ba nét nghĩa như sau. Thứ nhất, truyện Trạng nhằm chỉ chung tất cả những mẩu chuyện mang tính giai thoại về những ông Trạng nổi tiếng có thực hoặc được coi là có thực (bao hàm cả những truyện Trạng nghiêm túc, không hề có yếu tố gây cười). Thứ hai, nét nghĩa hẹp hơn là chỉ những truyện kể hài hước về những nhân vật chính là Trạng. Cuối cùng, nghĩa cụ thể hơn của từ này là để chỉ chung tất cả những mẩu giai thoại hài hước về các nhân vật nổi tiếng ở địa phương, bao gồm cả những ông Trạng có thật trong lịch sử, cả những ông Trạng do nhân dân phong tặng hay cả những người nổi tiếng về tài kể chuyện hài hước như thể mình là người đã trải qua, đã từng chứng kiến. Chưa nói đến một số người còn hiểu ở nghĩa hẹp rằng truyện Trạng là những truyện nói khoác, bốc phét (những truyện dựa trên thủ pháp cường điệu, ngoa dụ để gây cười, càng phi lý chừng nào, khoác lác chừng nào thì càng gần với truyện Trạng chừng ấy).
Nói như trên để thấy quả thật tìm một định nghĩa để bao quát hết các tiểu loại truyện cười trên thực tế là một việc không đơn giản. Tuy nhiên, ta vẫn có thể xác định những điểm chung nhất về thể loại này – đặc biệt là tiêu chí cơ bản của nó – yếu tố gây cười. Trên tiêu chí này ta thử điểm qua các khái niệm về truyện cười của một số nhà nghiên cứu.
Ông Chu Xuân Diên (SGK10 tập 1) cho rằng Truyện cười dân gian là những truyện kể có dung lượng nhỏ, mô tả những khía cạnh tức cười của các hiện tượng trong cuộc sống (thường là các hiện tượng tiêu cực).
Ông Đỗ Bình Trị (SGK 10 Tập 1- Ban KHXH) diễn giải rõ hơn rằng Truyện cười là những truyện kể làm bộc lộ cái đáng cười ở dạng nực cười của nó để gây cười. Theo ông, cái đáng cười là cái gây ra cái cười. Đó là những hiện tượng mang một loại mâu thuẫn đặc biệt: hình thức bên ngoài có vẻ hợp lẽ tự nhiên nhưng thực chất bên trong là trái tự nhiên; hình thức bên ngoài có vẻ phù hợp với nội dung bên trong, nhưng lại để lộ ra sự không phù hợp. Khi cái đáng cười gây ra cái cười là khi trí óc ta phát hiện ra cái đáng cười và truyện cười thực chất là truyện được sáng tác ra để cười. Từ đó, ông kết luận rằng, cái cười hài hước, cái cười châm biếm là sản phẩm của nhận thức lý tính. Mục đích mua vui và phê phán nằm ngay ở bản thân cái cười do truyện gây ra. Vậy cũng cần nhấn mạnh rằng, truyện cười có thể là truyện hài hước cốt mua vui, có thể là truyện châm biếm nhằm đả kích, nhưng luôn là sản phẩm của tư duy logic và óc phê phán.
Ông Trần Vĩnh (ĐHSP TPHCM) ví truyện cười như những tấn hài kịch nhỏ, phơi bày những oái oăm trái ngược, phê phán sự nhố nhăng, lố bịch trong xã hội, giúp ta nhận rõ mặt không phù hợp của sự vật, sự việc.
Nói chung tất cả đều cố gắng tiếp cận nội dung, chức năng và đối tượng của thể loại tự sự dân gian này để tìm ra những khái niệm xác đáng nhất về truyện cười. Những khái niệm vừa nêu giúp ta nhận diện rõ hơn thể loại độc đáo này của văn học dân gian. Đó là một thể loại truyện kể dân gian, thường có dung lượng ngắn, chủ yếu khai thác các yếu tố gây cười để mua vui, để phê phán và đả kích những cái xấu, những hiện tượng và đối tượng tiêu cực trong cuộc sống xã hội. Nhưng để có thể tiếp cận truyện cười một cách đầy đủ và cụ thể hơn, chúng ta hãy tìm hiểu về bản chất thể loại của truyện cười.
2. Về bản chất đặc điểm thể loại
Như đã nêu trên, nói đến truyện cười là nói đến tiếng cười. Truyện cười lấy tiếng cười làm phương tiện để thực hiện mục đích giáo dục, châm biếm, đả kích hoặc mua vui giải trí. Tiếng cười trong truyện cười là phương tiện để đề cập đến cái đáng cười – đối tượng và mục đích của tiếng cười.
Thật ra, tiếng cười có rất nhiều cấp độ khác nhau. Có tiếng cười sinh lý, bản năng, khi cơ thể bị kích thích hoặc tiếng cười bệnh lý. Có tiếng cười hưng phấn vui thú, có ích, tạo cho con người sự thoải mái về tinh thần. Ở một cấp độ cao hơn nữa, tiếng cười bật ra do tư duy con người phát hiện ra một sự mâu thuẫn nào đó trong đời sống, trong lời nói, hành vi và hoạt động của con người. Nói chung là những việc trái lẽ tự nhiên, trái đạo đức truyền thống. Tiếng cười nhận thức và phê phán mang ý nghĩa nhân sinh, có mục đích, giáo dục, đấu tranh.
Như vậy ta có thể hình dung ra truyện cười dân gian chủ yếu khai thác cấp độ nào của tiếng cười, hoặc ít ra từng nhóm nội dung khác nhau của truyện cười khai thác ở những cấp độ tiếng cười cũng khác nhau như thế nào.
Vậy cái đáng cười mà truyện cười đề cập đến và hướng đến, đó là gì? Ta có thể xem xét trên hai bình diện. Về mặt logic, cái đáng cười là sự mâu thuẫn, trái lẽ, ngược đời. Còn xét về mặt xã hội, cái đáng cười là cái xấu, cái tiêu cực.
Tiếng cười của dân gian bật ra khi tác giả dân gian khám phá được một mâu thuẫn, một sự trái lẽ, ngược đời. Tiếng cười thâm thúy qua tác phẩm chính là biểu hiện cho sự thắng lợi về mặt trí tuệ, tinh thần.
3. Phân loại truyện cười
3.1. Căn cứ vào đặc điểm thi pháp và cấu tạo:
Ta có hai loại truyện cười không kết chuỗi và truyện cười kết chuỗi.
a. Truyện cười không kết chuỗi:
Đây là những truyện cười tồn tại dưới dạng những tiểu phẩm ngắn độc lập. Mỗi truyện cười như một vở hài kịch ngắn. Ta sẽ không gặp lại nhân vật trong truyện cười đó ở một truyện cười khác. Tuy nhiên, loại này lại tạm thời chia thành hai mức độ phản ánh rộng và hẹp, chủ yếu phụ thuộc vào nhân vật chính của truyện cười – đối tượng chính của tiếng cười.
Ở bộ phận truyện cười phiếm chỉ ở mức rộng, nhân vật không có tên riêng và đồng thời cũng không có tính xác định xã hội cụ thể, chỉ tượng trưng cho những thói hư tật xấu phổ biến của con người. Đó là loại nhân vật mà tên gọi gắn liền với tính cách, mà ở đây là những tính cách xấu, những thói tật còn hạn chế như mê ngủ, lười nhác, hà tiện, sợ vợ, hay quên…(Ví dụ: Ba anh mê ngủ, Anh cận thị, Đại hà tiện và tiểu hà tiện, Tay ải tay ai…). Tiếng cười trong loại truyện này thiên về hài hước, đôi khi vô thưởng vô phạt, ý nghĩa xã hội không có hoặc rất mờ nhạt.
Ở bộ phận truyện cười phiếm chỉ ở mức hẹp, nhân vật cũng không có tên riêng nhưng có thành phần, địa vị xã hội tương đối cụ thể như đày tớ, phú ông, thầy đồ, lý trưởng, quan huyện và vì vậy tên gọi nhân vật cũng gắn với những địa vị xã hội này…(Ví dụ Lạy cụ đề ạ, Cái tăm quan huyện, Đày tớ, Sang cả mình con…). Ở loại truyện này giá trị hiện thực, tính chiến đấu cao hơn.
b. Truyện cười kết chuỗi:
Đây là loại truyện cười mà được kết thành hệ thống. Nhân vật đi hết từ mẩu chuyện này sang mẩu chuyện khác với ngoại hình, tính cách, ngôn ngữ…hầu như không thay đổi. Yếu tố để nối kết các truyện lại với nhau thành một chuỗi đó là các truyện có chung một nhân vật, chung một bối cảnh thời đại. Nhân vật, vì lẽ đó, luôn là một nhân vật rất cụ thể với tên riêng (Trạng Quỳnh, Xiển Bột, Trạng Lợn, Ba Giai, Tú Xuất, Thủ Thiệm, Bác Ba Phi…) , lý lịch khá rõ ràng mặc dù phần lớn đều là hư cấu.
Loại truyện này có tính xác định xã hội cụ thể, nhân vật thường có tính cách độc đáo và tương đối nhất quán.
Căn cứ vào tính chất của tiếng cười và đặc điểm nhân vật, ta có thể chia truyện cười kết chuỗi làm hai loại nhỏ. Loại thứ nhất, đi suốt các truyện cười kết chuỗi với nhân vật trung tâm là đối tượng của tiếng cười phê phán (Ví dụ Trạng Lợn- một anh chàng “số đỏ” gặp may, chứ không phải là một nhân vật thông minh). Ngược lại loại này là loại nhân vật trung tâm là chủ thể của tiếng cười phê phán. Trường hợp này, nhân vật thường có tính cách thông minh hóm hỉnh, dùng trí tuệ của mình để phủ định kẻ xấu, cái xấu và khẳng định tài trí của mình. Ở đây, nhân vật luôn chủ động tấn công, dùng tiếng cười làm phương tiện và vũ khí, làm cho kẻ thù mất mặt. Tiếng cười vừa có tính phủ định kẻ xấu, cái xấu vừa có tính khẳng định, ca ngợi, tán dương nhân vật tài trí, thông minh (biểu hiện cho trí tuệ dân gian). Loại truyện này phát triển mạnh mẽ , giàu ý nghĩa triết lý nhân sinh (Ví dụ truyện Trạng Quỳnh, Ba Giai Tú Xuất, Thủ Thiệm, Bác Ba Phi…)
3.2. Căn cứ vào nội dung:
Việc phân ra một số loại truyện cười căn cứ vào nội dung chỉ mang tính chất tương đối, để tham khảo là chính. Bởi lẽ nói đến nội dung truyện cười là nói đến sự đa dạng, phong phú và tính chất phổ biến sâu rộng trong quần chúng của thể loại này. Cuộc sống vốn cũng rất phức tạp và muôn màu, tiếng cười nảy sinh trong đó càng khó quy về một tiêu chí nào. Sự phân loại dưới đây nhắm đến mục đích và đối tượng gây cười là chủ yếu. Ta tạm phân ra các nhóm truyện sau:
a. Truyện khôi hài:
Nhằm mục đích mua vui giải trí, vui vẻ, lành mạnh, truyện đi vào khai thác những cảnh ngộ éo le, ngộ nghĩnh để cười vui. Đối tượng tạo ra tiếng cười là những tâm hồn lành mạnh, trong sáng, những trí tuệ thông minh, những tính cách trẻ trung, ham sống, ham đấu tranh và rất lạc quan yêu đời. Ta có các truyện như Tay ải tay ai, Ba anh mê ngủ, Lợn mới áo cưới…
b. Truyện trào phúng:
Với chức năng phê phán, đả kích, giáo dục, nhóm truyện này hướng đến nhiều đối tượng khác nhau trong đời sống và những thói tật đáng phê phán, đáng cười. Và tùy đối tượng, tính chất cái xấu mà tiếng cười có thể có những mức độ khác nhau. Lấy tiêu chí mâu thuẫn đối kháng giai cấp, ta phân tất cả những đối tượng đa dạng của nhóm truyện này thành hai loại chính, tạm gọi là “trào phúng bạn” và “trào phúng thù”.
Trào phúng bạn (hay còn gọi là truyện châm biếm) hướng đến đối tượng đáng cười trong hàng ngũ nhân dân với những thói tật như tham ăn, nói khoác, học đòi, rởm đời, hà tiện, keo kiệt, xu nịnh…. Mục đích của những truyện này là phê phán những thói hư tật xấu trong nhân dân (nhất là cái thói học đòi theo giai cấp thống trị như truyện “Con vịt hai chân” cười anh chàng có tính hay nịnh quan nên bị đòn). Tuy nhiên tiếng cười không có ý định phủ nhận đối tượng theo kiểu triệt tiêu, loại trừ mà chỉ góp phần làm cho đối tượng trở nên hoàn thiện hơn. Đó là các truyện Con rắn vuông, Tao tưởng tao mừng quá, Nhất bên trọng nhất bên khinh, Tiếng đàn bầu, Cưỡi ngỗng mà về, Con gà có bảy đức, Tam đại gàn, Mời bác xơi ngọc, Thơm rồi lại thối…
Như vậy, loại truyện này không đả kích đối tượng là con người mà chỉ phê phán, châm biếm những thói xấu của con người với thái độ không gay gắt mà có tính xây dựng. Nhưng đến khi cái xấu không chỉ là một nét riêng biệt, một vài khía cạnh mà là bản chất của đối tượng thì tiếng cười trở nên gay gắt, quyết liệt, mạnh mẽ. Lúc đó, truyện cười trở thành truyện “trào phúng thù”.
Trào phúng thù (hay còn gọi là truyện đả kích) nhắm đến đối tượng là bọn vua quan triều đình (Khác với hình ảnh vua, quan trong truyện cổ tích); bọn hào trưởng, phú ông; các thầy như thầy đồ, thầy lang, thầy bói, thầy chùa… thể hiện sự xuống dốc của xã hội phong kiến. Nhóm truyện này vận dụng sự phê phán bằng cảm xúc, phủ định bản chất của đối tượng. Tiếng cười ở đây một mặt bóc trần bộ mặt thật của giai cấp thống trị bóc lột và bè lũ đại diện của nó, mặt khác cảnh tỉnh nhân dân xóa tan những ảo tưởng về cái gọi là công lý, đạo đức xã hội… trong chế độ phong kiến. Ta có các truyện Tao thèm quá, Xin hoãn cho một đêm, Quan huyện thanh liêm, Thần Bia trả nghĩa, Giả nợ tiền kiếp, Thầy đò liếm mật, Thầy bói xem voi, Đậu phụ chùa cắn đậu phụ nhà, Mẹ đẻ ra sư, Đau bụng uống nhân sâm, Chỉ một con ma, Tam đại con gà…
Loại truyện này đã giáng những đòn quyết liệt vào tất cả những gì không phù hợp với những lý tưởng chính trị, đạo đức tiên tiến của thời đại và những gì cản trở sự tiến bộ đó
3.3. Truyện cười giai thoại:
a. Truyện Trạng Quỳnh
Về việc hình thành truyện Trạng Quỳnh
Theo truyền thuyết, Trạng Quỳnh quê ở làng Bột Thượng, Thanh Hóa, tên thật là Nguyễn Quỳnh sống vào đời Lê Hiển Tông (giữa thế kỷ XVIII), thông minh 16 tuổi đã đỗ hương cống nên còn được gọi là Cống Quỳnh. Tuy nhiên có thể từ nguyên mẫu có thật ngoài đời nhân vật được hư cấu theo quan điểm nhân dân (được quần chúng nhân dân ủng hộ và bênh vực; mang trong mình trí tuệ sắc bén của nhân dân) tạo thành những giai thoại đặc sắc.
Như vậy, Trạng Quỳnh chủ yếu là một nhân vật văn học dân gian do nhân dân qua nhiều thế hệ, nhiều địa phương hư cấu. Không loại trừ tác giả của một số trong chuỗi truyện Trạng Quỳnh là cả tầng lớp nho sĩ, trí thức – lực lượng sáng tác của văn học viết. Họ chán ghét triều đình phong kiến, bất mãn với bọn vua quan sâu dân mọt nước nên mượn nhân vật Trạng Quỳnh để đả kích một cách sâu cay. Một số truyện Trạng có những câu đối rất gần với cách thể hiện diễn đạt của văn học viết. Điều đó càng chứng tỏ sức sống của nhân vật rất dân gian này.
Dạng nhân vật Trạng Quỳnh ở đây, tương tự với nhân vật Xiêng Miêng của Lào, Thơ Mênh Chây của Campuchia, A Phan Thí của Trung Quốc. Trạng rất gần với dạng nhân vật thông minh trong truyện cổ tích sinh hoạt nhưng lại có nhiều tình huống gây cười và nhân vật đối đầu với cái xấu xa lạc hậu thối nát của một xã hội phong kiến xuống dốc. Tất cả tập hợp lại thành một xâu chuỗi các mẩu truyện xoay quanh nhân vật trung tâm là Trạng Quỳnh để đối đầu với một loạt các tên đầu sỏ của xã hội phong kiến đương thời (Vua Lê, chúa Trịnh, quan Hoạn, quan trường, thậm chí cả Thành hoàng, Chúa Liễu…qua các truyện như: Dê đực chửa, Con mèo vua Lê, Đào trường thọ, Nhất tự vi sư bán tự vi sư, Ngọa sơn, Sách quý, Tiến chúa rau cải, Trạng chết chúa cũng băng hà, Chọi gà, Bảo thái, Xem miệng quan, Khấn Thành hoàng, Tạ ơn chúa Liễu, Vay tiền chúa Liễu…)
Xét gia phả của họ Nguyễn ở làng Bột Thượng, có người là Nguyễn Quỳnh nhưng không hề đỗ Trạng (Và cùng không có rất nhiều tình huống như các truyện đã khai thác như đi sứ, đánh thuốc độc…). Như vậy, về một mặt nào đó, nhân vật này bắt nguồn từ nguyên mẫu trong lịch sử nhưng mặt khác, Trạng đã được dân gian hóa – mang tình hư cấu. Chức Trạng chỉ là một danh hiệu có tính chất dân gian và hệ thống xâu chuỗi truyện Trạng Quỳnh là loại truyện có tính chất giai thoại. Nhân vật đứng trên lập trường quần chúng để tấn công cái ác, cái xấu, thuộc hàng ngũ quần chúng, được quần chúng bênh vực và ủng hộ.
Bên cạnh đó, Trạng cũng là loại nhân vật thông minh tài tử và vận dụng điều đó để là vũ khí sắc bén để đấu tranh.
Vài nét về nội dung và nghệ thuật của truyện Trạng Quỳnh:
Truyện Trạng Quỳnh thể hiện sâu sắc nội dung phê phán, đả kích tấn công vào toàn bộ hệ thống vua quan thống trị.
Trong truyện, vua không còn xuất hiện qua những hình thức ẩn dụ kín đáo nữa. Vua đã xuất hiện trực tiếp như một đối tượng bị phê phán hay nói cách khác là đã bị vạch mặt chỉ tên, bị liên tục đưa vào bẫy và tạo thành tình huống gây cười. Trong truyện Trạng Quỳnh, chân dung bọn vua chúa chỉ là một bè lũ nhu nhược, ươn hèn, liên tục bị lật tẩy những thói hư tật xấu như hoang dâm, tham ăn, ngốc nghếch. Cuộc đấu tranh chống cái ác, cái xấu là một cuộc đấu tranh không khoan nhượng. Truyện “Trạng chết chúa cũng băng hà” vừa thể hiện những bế tắc trong nhận thức của nhân dân về sự thay đổi một chế độ, vừa có ý nghĩa phê phán mạnh mẽ kẻ thù giai cấp, vừa ngầm thể hiện một khát khao cháy bỏng thiết tha về một xã hội ngày mai tốt đẹp hơn.
Ngoài ra, truyện Trạng Quỳnh còn dũng cảm và táo bạo lôi ra trước vành móng ngựa một loạt những đối tượng khác với sự phê phán sâu cay không kém. Đó là bọn quan thị sâu mọt lũng đoạn xã hội tạo nên bao nhiêu đau khổ oan khiên cho người dân. Đó là bọn quan trường ngu dốt mà hợm hĩnh; là những tên lại mục kỳ hào độc ác và gian giảo; kể cả thần quyền và những kẻ đại diện đắc lực của nó.
Truyện Trạng Quỳnh vừa toát lên các đặc điểm thi pháp của Truyện cười vừa có cả màu sắc của truyện cổ tích sinh hoạt (Yếu tố hiện thực đậm nét mà nhạt dần yếu tố tưởng tượng thần kỳ). Đặc điểm về mặt kết cấu của truyện trạng Quỳnh khác biệt hẳn so với các truyện cười dân gian khác. Đó là, như trên đã nói, nó được tập hợp lại thành một xâu chuỗi, liên kết với nhau một cách có hệ thống xoay quanh một nhân vật nhất định – nhân vật trung tâm là Trạng Quỳnh. Nhưng mỗi mẩu truyện lại đều có sự hoàn chỉnh, có thể đứng riêng ra thành một truyện. Mỗi mẩu truyện là một tình huống trong đó Trạng thể hiện sự nhanh trí, sáng ý, tháo vác và sử dụng những cái đó như vũ khí để báng bổ chế giễu, lật tẩy những nhân vật tai to mặt lớn của xã hội phong kiến làm tiếng cười bật ra một cách sảng khoái hả hê.
Truyện thể hiện kinh nghiệm sống phong phú, trí tuệ, sự mẫn tiệp, lương tri của nhân dân, chứa đựng một tư tưởng phóng túng, ý thức phản kháng và tinh thần dân chủ rất mãnh liệt.
Tóm lại, chuỗi truyện Trạng Quỳnh có ý nghĩa tố cáo mạnh mẽ và sâu sắc xã hội đương thời dù tác giả dân gian vẫn còn bế tắc trong việc đưa ra một giải pháp về việc thay đổi chế độ. Mặc dù có ý kiến cho rằng “Trạng Quỳnh là nhân vật của thị dân” “ Không có ý thức thị dân ấy ở dưới chế độ phong kiến không thể có thái độ chống giai cấp phong kiến có hệ thống và tương đối triệt để như thái độ Trạng Quỳnh được”(Văn Tân – Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập 3. trang 111) nhưng “phải chăng nhân vật Trạng Quỳnh là tiêu biểu cho tầng lớp trí thức bình dân, chịu ảnh hưởng sâu sắc của quần chúng nhân dân, đứng hẳn về phía nhân dân chống lại kẻ thù chung là giai cấp thống trị” (Hoàng Tiến Tựu – Giáo trình CĐSP).
b. Truyện Trạng Lợn
Nhân vật chính của chuỗi truyện này xuất thân từ nghề lái lợn, tên thật là Dương Đình Chung, còn gọi là Chung Nhi, quê ở làng Dừa, tỉnh Hà Nam Ninh. Thích làm Trạng nhưng lại lười học và ham chơi nên tự phong cho mình là Trạng dù chỉ theo cha để hành nghề lái lợn. Trạng Lợn kết thân với Trạng cờ, Trạng ăn, Trạng vật (cũng theo tính cách của họ mà ra các tên hài hước này). Trạng Lợn cũng có đả kích chế độ phong kiến nhưng dân gian cũng đả kích luôn cả Trạng như thể dưới mắt nhân dân, Trạng Lợn cũng không phải là nhân vật chính diện. Những mẩu chuyện về Trạng Lợn cũng được xâu chuỗi xoay quanh nhân vật chính là Trạng Lợn, phản ánh những rối ren, đổ nát của triều đình phong kiến lúc bấy giờ với những chi tiết rất hiện thực, gắn với lịch sử và được hư cấu nghệ thuật thêm (như Vua bất lực khi gặp binh biến, quan lại chỉ là bọn bất tài chờ cơ hội may rủi mà thôi. Đó là các truyện như Trạng dở hay Trạng nguyên, Mua lợn, Bắt trộm, Làm thơ, Xem bói, Kết nghĩa, Cứu vua…)
c. Truyện Ông Ó
Tên ông Ó dùng để gọi một ông già bẫy chim ó sinh sống ở xóm Dưa, nay thuộc tỉnh Bến Tre, một người có tài kể chuyện vui cười, châm biếm rất dí dỏm.
Những truyện này xoay quanh những vấn đề như nói lỡm, tỏ sự khinh thị với triều đình Huế (Chuyện lạ ở Huế, Pháo để vua trốn mưa, Vua mặc áo như phường hát hội, Nói gạt các quan lớn…), chơi khăm nhà giàu con buôn (Mượn trâu, Tham thì thâm…). Dù lượng truyện sưu tầm còn quá ít nhưng truyện ông Ó có vẻ gần với tác giả là người bình dân hơn với sự mộc mạc, chất phác, ngôn ngữ giản dị, đời thường, ít văn chương chữ nghĩa.
Ngoài ra, truyện cười kết chuỗi còn có truyện về bác Ba Phi. Truyện phổ biến ở vùng tràm đước Cà Mau Nam bộ. Hiện nay, loại truyện này mới được đặt vấn đề nghiên cứu – trước đây chỉ sưu tầm – với ít nhất là 58 mẩu chuyện nhỏ về một nhân vật thông minh và hài hước có thật. Truyện chủ yếu khai thác yếu tố cường điệu để gây cười. Qua đó, ta thấy toát lên tính cách con người Nam bộ hồn hậu phóng khoáng, lạc quan và yêu đời trên cái phông nền của vùng sông nước đất phương Nam giàu có, trù phú, thiên nhiên ưu đãi.
4. Nội dung, ý nghĩa truyện cười
a. Tiếng cười là vũ khí đấu tranh nhằm đả kích châm biếm các nhân vật tiêu biểu của xã hội phong kiến:
Hiện thực của xã hội phong kiến, những mâu thuẫn cơ bản tồn tại trong lòng xã hội ấy, đặc biệt vào thời kỳ suy tàn đã trở thành cơ sở cho truyện cười ra đời, tồn tại và phát triển mạnh mẽ. Tiếng cười trở thành vũ khí đấu tranh lợi hại của nhân dân, điểm mặt tất cả các tầng lớp, hạng người trong xã hội phong kiến không loại trừ bất cứ một đối tượng đáng cười nào. Từ bọn vua chúa và bọn quan lại, hào lý với bản chất xấu xa, dâm dật, hèn nhát, bất tài, hống hách… đến những tên nhà giàu (phú ông, trưởng giả, địa chủ, phú thương…) ở nông thôn và thành thị tham lam, keo kiệt, kênh kiệu, học làm sang…Phong phú và nực cười không kém là các loại “thầy” trong xã hội phong kiến như thầy đồ, thầy bói, thầy địa lý, thầy cúng, thầy lang, thầy chùa, nhà sư… Ta có thể khảo sát nội dung này trong hàng loạt truyện như nhóm truyện Trạng Quỳnh và các truyện Diêm Vương thèm ăn thịt, Bẩm chó cả, Quan huyện thanh liêm, Quan sợ ai, Tam đại con gà, Thầy bói sợ ma, Phúc thống phục nhân sâm, Đậu phụ chùa cắn đậu phụ nhà…
Tóm lại, tùy từng đối tượng đả kích, truyện cười đã hướng mũi nhọn vào những cái xấu thuộc về bản chất của chúng với thái độ căm ghét, khinh bỉ và đấu tranh không khoan nhượng.
b. Tiếng cười phê phán những thói hư tật xấu trong nhân dân:
Đó là những thói hư tật xấu diễn ra trong sinh hoạt thường ngày của nhân dân Những thói tật như lười nhác, tham ăn, ăn vụng, khoe khoang, khoác lác, hà tiện, hèn nhát, sợ vợ, chanh chua, xu nịnh… được phê phán trong hàng loạt những truyện cười phong phú độc đáo, không trùng lắp về nội dung cũng như về nghệ thuật. Những truyện như Đại hà tiện, Tiểu hà tiện, Đến chết vẫn hà tiện, Hội sợ vợ, Hâm nước mắm, Chẳng phải tay tôi, Lợn mới áo cưới, Ba người khoe của, Thi nói khoác, Khoác gặp khoác, Con rắn vuông, Khoai Hà Đông cầu Hà Tây… đã đạt đến độ sắc sảo và thâm thúy trong nội dung và ý nghĩa.
Tóm lại, khi phê phán, nhân dân đã hướng đến mục đích giáo dục xây dựng dựa trên quan điểm đạo đức và lý tưởng thẩm mỹ quen thuộc gần gũi và giản dị của quần chúng nhân dân.
c. Tiếng cười mua vui giải trí:
Vì là mục đích mua vui giải trí nên đối tượng, nội dung và yếu tố gây cười trong loại truyện này rất nhẹ nhàng, thoải mái. Những nhược điểm, khuyết tật không đáng kể như ham ăn, mê ngủ, cận thị, ngốc nghếch, nặng tai, đãng trí… Ví dụ: Tay ải tay ai, Ba anh mê ngủ, Anh cận thị và con chuồn chuồn, Lợn cưới áo mớii… Cũng cần lưu ý thêm, ở một số truyện, tác giả dân gian đi vào khai thác các khuyết tật (thường là những khuyết tật bẩm sinh – ngoài ý muốn của con người) đôi khi quá đà, sử dụng những khuyết tật đó như là một yếu tố nội dung và một thủ pháp nghệ thuật để gây cười. Điều này có vẻ như phản tác dụng, không phù hợp với lý tưởng thẩm mỹ chung.
Tóm lại, đặt truyện cười vào môi trường diễn xướng của nó, dễ thấy rằng chức năng sinh hoạt của truyện cười dân gian gắn liền với ý nghĩa nhân sinh, ý nghĩa xã hội sắc bén của nó. Do đó, truyện cười là một thể loại lưu truyền rất mạnh.
Tuy không có chức năng răn dạy trực tiếp như truyện cổ tích, truyền thuyết… nhưng truyện cười có tác dụng giáo dục độc đáo : nó mài sắc tư duy suy lý, nó làm giàu óc phê phán, giúp trau dồi khả năng sử dụng ngôn ngữ. Điều này lý giải vì sao những người có tài hài hước châm biếm thường nhanh nhạy, thông minh sắc sảo, thú vị trong ứng đối
5. Đặc điểm thi pháp truyện cười
a. Cốt truyện:
Truyện cười là thể loại truyện kể ngắn gọn vào bậc nhất trong văn học dân gian. Tuy nhiên, ngắn gọn mà vẫn bảo đảm đầy đủ một cốt truyện có mở đầu, diễn biến và kết thúc. Truyện cũng có cao trào, thắt nút, đỉnh điểm, mở nút đúng theo quy trình một cốt truyện hiện đại sắc sảo.
Cốt truyện của truyện cười luôn được đặt trong một hoàn cảnh thích hợp để có thể bật ra tiếng cười và truyện thường được cấu tạo như một màn kịch ba lớp:
– Phân đoạn đầu:
Vào truyện là cách giới thiệu nhân vật trực tiếp không úp mở. Ví dụ: Có anh tính hay khoe của (Lợn cưới áo mới); Có anh keo kiệt, ăn chẳng dám ăn, mặc chẳng dám mặc, chỉ khư khư tích của làm giàu (Đến chết vẫn hà tiện); Một ông tai mắt trong làng, tính thích ăn đỗ đen luộc, nhưng lại sợ vợ (Đổ mồ hôi mực)
Bên cạnh đó, truyện giới thiệu kèm theo một hiện tượng có mâu thuẫn tiềm tàng và ngay lập tức nhân vật được đặt vào tình thế gây cười. Cần nói thêm, mâu thuẫn tiềm tàng là hiện tượng mang sẵn cái đáng cười chỉ chờ có điều kiện để tự bộc lộ hoặc bị phát hiện (Tính tham ăn thì phải đặt vào bữa cỗ mới có điều kiện bộc lộ, tính keo kiệt cũng thế, phải có tình huống để thử thách giữa tiền bạc và mạng sống). Ví dụ: Anh có tính hay khoe của may được cái áo mới, liền đem ra mặc từ sáng cho đến chiều chả thấy ai hỏi cả (Lợn cưới áo mới); Anh keo kiệt cùng bạn ra tỉnh chơi, mang theo ba quan tiền giắt lưng (Đến chết vẫn hà tiện); Ông có tính thích ăn đỗ đen luộc sợ vợ được hôm vợ đi vắng luộc một nồi đỗ đen ăn vụng (Đổ mồ hôi mực)…
Như vậy, hiện tượng mang sẵn cái đáng cười (mâu thuẫn tiềm tàng) chỉ chờ có
điều kiện để tự bộc lộ và bị phát hiện.
– Phân đoạn nút:
Ở đây, mâu thuẫn tiềm tàng phát triển đến đỉnh điểm. Tức là lúc cái đáng cười từ thế tiềm tàng đã được đẩy tới cái thế sắp sửa được phơi bày ra một cách cụ thể, rõ ràng, sinh động và nực cười. Chẳng hạn Anh “áo mới” đang tức vì hóng mát mãi chưa có ai để khoe thì anh “lợn cưới” chạy đến nhưng lại bị anh này khoe trước (Lợn cưới áo mới); Anh keo kiệt đi tỉnh chơi về, với ba quan tiền mang theo còn nguyên, khát nước, uống nước sông bị ngã, và bạn anh ta kêu cứu với giá “5 quan” (Đến chết vẫn hà tiện); Anh sợ vợ luộc vụng đỗ đen, đỗ chín chưa kịp ăn thì vợ về lại phải ra đình ngay để lễ thánh, đành trút nồi đỗ đen vào mũ tế đội lên đầu mà đi (Đổ mồ hôi mực)
Đến đây, người nghe đang ở vào cái thế “chờ xem” đầy kịch tính mà điểm nút thật sự còn nằm ở kết thúc bất ngờ.
– Phân đoạn kết:
Đây là giai đoạn mà sự mâu thuẫn được giải quyết – tức là cái đáng cười bị bộc lộ, là lúc cái ngược đời ở hiện tượng tự phơi bày ra và bị ta phát hiện. Kết thúc thường đột ngột bất ngờ. Anh “áo mới” vớ phải anh “lợn cưới” đang lăm le khoe, lại bị nghe nó khoe trước, lại ở thế phải trả lời, vậy mà vẫn lật lại được thế cờ, vẫn trả lời người hỏi nghiêm chỉnh theo đúng phép tắc, đồng thời tranh thủ “khoe” được những thông tin cần thiết về cái áo mới của mình (Lợn cưới áo mới). Anh keo kiệt sắp chết đuối, đã ngoi lên không chấp nhận cái giá vớt “5 quan”, nghe tiếng anh bạn điều chỉnh giá vớt xuống “3 quan”, lại cố ngoi kêu lên “3 quan vẫn đắt” (Đến chết vẫn hà tiện). Anh đội mũ tế lót…đỗ đen luộc, nước đỗ chảy ròng ròng, ra đình bị người ta hỏi vì sao, lại thản nhiên trả lời “Ấy tôi thường có tính đổ mồ hôi mực thế đấy” (Đổ mồ hôi mực).
Kết thúc truyện cười dừng lại đúng lúc cái đáng cười phơi bày. Đến đây, như thể truyện cười đã làm hết vai trò của nó – vai trò phát hiện ra cái đáng cười và mang lại cho người nghe chuyện nụ cười sảng khoái. Truyện cười không tự đặt cho mình nhiệm vụ kể lại số phận cuộc đời của nhân vật như truyện cổ tích.
Như đã nói, nó chỉ kể lại một câu chuyện buồn cười nhằm mục đích gây cười.
Khi cái cười nổ ra tức là mục đích của truyện đã đạt và câu chuyện cũng kết thúc ở đấy. Đó là một kết thúc trọn vẹn theo thi pháp kết cấu của truyện cười – chứ không hề là một kết thúc bỏ ngỏ như nhận xét của một số người thường nói. Truyện cười đã hoàn tất kết cấu truyện của mình một cách hết sức thông minh, chặt chẽ. Truyện đã dành cho người nghe cái cười đích đáng nhất ở phần kết thúc – chỗ mà người nghe bị bất ngờ hơn cả. Điều này chứng tỏ truyện cười dân gian đã được cấu tạo một cách hết sức logic, khoa học đặc biệt trong việc lựa chọn, bố trí, sắp xếp các chi tiết.
Tóm lại, truyện cười thường có cốt truyện đơn giản, tình tiết cô đọng hàm súc nhưng chặt chẽ hợp lý như một màn kịch ngắn. Không có câu chữ, chi tiết thừa và không hề được miêu tả một cách dài dòng. Kết thúc bất ngờ, độc đáo.
b. Cách xây dựng nhân vật:
Truyện cười có khá ít nhân vật. Thường là hai (một chính, một phụ) nhưng đều là những nhân vật có “nét”, khó quên. Khác với nhân vật cổ tích có cả một số phận, một cuộc đời, nhân vật truyện cười không có “bề dày” như thế mà ngược lại đơn giản hơn nhiều. Nhân vật trong truyện cười chỉ là một nét tính cách hoặc một khoảnh khắc nào đó trong cuộc đời nhân vật. Đó có thể là hành vi ứng xử trong một hoàn cảnh nhất định nào đó. Và hành vi ứng xử ấy được biểu hiện chủ yếu ở lời nói, hành động…của nhân vật mà thôi. Vì thế cho nên, đọc một truyện cười, khi thì ta chú ý vào cái đáng cười toát ra từ hành vi ứng xử của nhân vật; khi thì ta lại cười cả hành vi, cả tính cách, cả toàn bộ con người của nhân vật.
Trong thế giới nhân vật phong phú của truyện cười, ta nhận ra ba loại nhân vật xoay quanh mục đích gây cười. Đó là nhân vật bị cười (Là đối tượng của tiếng cười phê phán, đả kích, châm biếm); nhân vật cười (Nhân vật này thường xuất hiện trong truyện cười kết chuỗi , là nhân vật tích cực, chủ thể của tiếng cười phê phán ) và cuối cùng là nhân vật trung gian (Là phương tiện tạo ra tiếng cười phê phán).
Ví dụ: Truyện “Tam đại con gà”, thầy đồ là đối tượng của tiếng cười phê phán (nhân vật bị cười), người chủ nhà là nhân vật tích cực, chủ thể của tiếng cười phê phán (nhân vật cười), đứa con – học trò là phương tiện tạo ra tiếng cười phê phán (nhân vật trung gian).
Tuy nhiên, không nhất thiết phải có đầy đủ ba loại nhân vật trên trong cùng một truyện cười và không phải lúc nào ranh giới giữa nhân vật bị cười và nhân vật trung gian cũng rõ ràng và rạch ròi. Đôi khi chúng rất khó phân biệt. Có truyện, tự nhân vật bị cười trực tiếp gây ra tiếng cười. Nhưng phần lớn là nhân vật trung gian làm bật ra tiếng cười.
Khảo sát truyện “Đậu phụ chùa cắn đậu phụ nhà”, ta thấy vai trực tiếp gây ra cái đáng cười là chú tiểu khi gọi con chó là con đậu phụ (gọi theo sư cụ) và rồi lại sáng tác thêm ra cái gọi là đậu phụ chùa, đậu phụ nhà. Nhưng ngẫm cho kỹ thì chú tiểu chỉ là một nhân vật trung gian giúp ta phát hiện ra một cái đáng cười khác mà thôi. Chú tiểu đã lật tẩy một nhân vật đáng cười là sư cụ, xỏ xiên cái sự lén lút ăn thịt chó mà bảo là ăn đậu phụ của ông ta.
c. Giọng kể:
Đó là nghệ thuật kể chuyện của người kể. Truyện được sáng tác ra là để kể chứ không phải là để đọc. Vì vậy ở thể loại này vai trò của người kể và giọng kể hết sức quan trọng và mang tính quyết định . Tưởng tượng, một câu chuyện “bị” kể lại một cách nhạt nhẽo thì cái mục đích gây cười coi như không thể thực hiện được. Như vậy thì còn gì là đặc điểm của truyện cười? Quả thật, giọng kể và người kể sẽ quyết định sự thành công hay thất bại của cốt truyện. Sẽ không ngoa khi cho rằng, trong các loại truyện kể dân gian thì truyện cười đòi hỏi một người kể chuyện và một nghệ thuật kể chuyện rất độc đáo và tinh tế, hóm hỉnh hài hước nhưng phải tính táo, đặc biệt là phải hết sức có duyên, cái duyên ngầm của người kể. Từ lối chọn truyện đến ngôn ngữ kể chuyện (trong quá trình diễn xướng, còn kết hợp với cả cử chỉ, nét mặt, điệu bộ phụ họa) đều được chăm chút sao cho câu chuyện có sức thu hút người nghe nhiều nhất.
Chọn truyện tức là chọn những truyện phù hợp với các đối tượng có mặt trong thời điểm diễn xướng, hoàn cảnh sinh hoạt cụ thể. Hiểu biết đối tượng nghe kể chuyện đòi hỏi khả năng nắm bắt tâm lý của người kể rất cao. Ví dụ đối tượng thuộc giới tính nào? lứa tuổi? họ đang quan tâm đến những vấn đề gì? Những câu hỏi này được trả lời thỏa đáng sẽ mang lại thành công rất cao trong mục đích gây cười.
Ngôn ngữ kể sẽ được nói rõ hơn ở phần dưới đây, ở đây chỉ nhấn mạnh lời kể, giọng kể của người kể phải rõ ràng mạch lạc, không kéo lê thê dài dòng sẽ làm giảm sự hứng thú khi theo dõi; nhưng cũng không được quá ngắn gọn sơ sài, người nghe sẽ không được chuẩn bị đầy đủ về mặt tâm lý để bật cười bất ngờ ở phần kết thúc. Giọng kể vừa phải (không cao, không thấp, không nhanh, không chậm), truyền cảm cũng là điều cần lưu ý.
Đặc biệt là dù thế nào, người kể cũng không được cười trước người nghe (dân gian có bảo “vô duyên chưa nói mà cười”) . Nếu không như vậy, hoặc người nghe sẽ không cười nổi (vì chưa hiểu hết làm sao cười được); hoặc sẽ cười gượng gạo kém tự nhiên (cười vuốt theo người kể, cười vì thấy người kể cười chứ không phải vì nội dung câu chuyện). Người kể phải thật tỉnh (trong sự rung cảm thật sự hết mình) thì tiếng cười cuối cùng khi truyện kết thúc mới giòn giã. Và như thế mới thật sự là một truyện cười hoàn chỉnh. Nghệ thuật này tất nhiên phải được rèn giũa trong một môi trường diễn xướng tập thể, ngõ hầu đạt được kết quả cao.
Sự hồi hộp, chờ đợi, sự sảng khoái, hả hê của người nghe là kết quả của nghệ thuật kể chuyện do người thuật chuyện tạo nên cùng cái hay của cốt truyện.
Nghệ thuật kể chuyện góp phần tôn lên, phát huy thêm sức hấp dẫn của cốt truyện tạo nên một chỉnh thể thống nhất của truyện cười dân gian.
d. Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ truyện cười là loại ngôn ngữ đại chúng, trong sáng, dễ hiểu nhất trong số các loại tự sự dân gian. Nếu có mập mờ lấp lửng thiếu minh xác thì đó là sự cố ý một cách nghệ thuật để gây cười và điều này được xem như một thủ pháp ngôn ngữ của truyện cười. Tác giả dân gian tỏ ra rất có ý thức nghệ thuật hóa ngôn ngữ truyện cười trong những trường hợp cụ thể như nói thiếu, nói tắt để gây cười (Ăn đít bố, Bẩm chó cả…); tước bỏ ngữ cảnh nói (Ông lang đòi ăn, Thấy nó ỉa mà thèm…); dùng từ đồng âm và đa nghĩa (Sợ sét bà, Bảo thái, Ông nọ bà kia, Cúng Thành hoàng…). Bên cạnh đó, nhiều biện pháp chơi chữ được sử dụng: Nói lái, nói ngoa, dùng từ lạ, từ bạo… (Truyện Trạng Quỳnh). Và sẽ thiếu sót nếu bỏ qua sự cố ý sử dụng từ ngữ, yếu tố “tục” để gây cười (Lạy cụ đề ạ, Cái tăm quan huyện, Ngọa Sơn…)
e. Thời gian – không gian nghệ thuật:
Thời gian nghệ thuật: Mỗi một truyện cười như một màn kịch ngắn diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn. Thời gian nghệ thuật của truyện cười gắn với một nét tính cách, một khoảnh khắc cuộc đời nhân vật nên chỉ tập trung vào khoảng thời gian mà cái đáng cười bị phát hiện ra.
Không gian nghệ thuật: Tương tự, không gian hoạt động của các nhân vật trong truyện cười cũng rất nhỏ hẹp (Một căn buồng, một gian bếp, một ngôi nhà, một quảng đường, một khúc sông…)
g. Các biện pháp gây cười:
Đề tài gây cười: Truyện cười khai thác những cái xấu, cái đáng cười, đặc biệt là những mâu thuẫn trái lẽ, ngược đời để làm nên một hệ thống đề tài vô cùng phong phú đa dạng, ít trùng lắp.
Cách giải quyết bất ngờ, gây cười: Truyện cười với nhiều tình huống đáng cười nối tiếp nhau. Đỉnh điểm gây cười là tình huống cuối truyện (Cháy, Nam mo boong …). Mâu thuẫn tiềm tàng được đẩy lên tới tận cùng rồi được giải quyết đột ngột, bất ngờ (Tao thèm quá, Giàn lý đổ…)
Cường điệu gây cười: Tác giả dân gian hư cấu bằng thủ pháp cường điệu, phóng đại, thậm xưng để gây ra tiếng cười (Con rắn vuông, Thà chết còn hơn, Đánh chết nửa người…)
Ngôn ngữ gây cười: (xem phần ngôn ngữ.)
(Nguồn tham khảo: Trần Tùng Chinh, Giáo trình văn học dân gian Việt Nam)
Bài tham khảo 4:
1. Tục ngữ là gì?
Ông Chu Xuân Diên định nghĩa tục ngữ là những sáng tác dân gian ngắn gọn, có đơn vị là câu, nội dung ghi lại những điều quan sát về thiên nhiên con người và xã hội, những kinh nghiệm sống, những lời khuyên răn. Có thể coi tục ngữ là một thể loại triết lý dân gian. Cũng đồng nhất với ý kiến này, ông Đỗ Bình Trị nói tục ngữ là những câu (nói) chắc gọn, xuôi tai, diễn đạt những kinh nghiệm về thiên nhiên, về con người và về xã hội của nhân dân. Những sáng tác dân gian “nhỏ” nhất ấy (bằng một câu tục ngữ) kết tinh hầu như toàn bộ kho tàng kinh nghiệm đời sống, kinh nghiệm xã hội – lịch sử của nhân dân suốt mấy ngàn năm.
Cụ thể hơn, Giáo trình ĐHSP(1978) cho rằng tục ngữ là câu nói thường ngắn gọn có vần hoặc không có vần, có nhịp điệu hoặc không có nhịp điệu, đúc kết kinh nghiệm sản xuất hay đấu tranh xã hội, rút ra một chân lý phổ biến, ghi lại một nhận xét về tâm lý, phong tục tập quán của nhân dân. Tục ngữ do nhân dân sáng tác và được toàn thể xã hội công nhận.
Ta có thể liệt kê ra đây một loạt các ý kiến khác như “Một câu tục ngữ tự nó phải có một ý nghĩa đầy đủ, hoặc khuyên răn hoặc chỉ bảo điều gì” (Dương Quảng Hàm – Việt Nam Văn học sử yếu ); Tục ngữ là một câu tự nó diễn trọn một ý, một nhận xét, một luân lý, một công lý, có khi là một sự phê phán (Vũ Ngọc Phan – Tục ngữ ca dao dân ca )
Ông Hoàng Tiến Tựu cũng góp vào một định nghĩa, tục ngữ là một thể loại văn học dân gian có chức năng chủ yếu là đúc kết kinh nghiệm, tri thức, nêu lên những nhận xét dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích, giàu vần điệu, hình ảnh, dễ nhớ, dễ truyền. Xét về chức năng ngữ pháp và nội dung ý nghĩa thì dù ngắn, mỗi câu tục ngữ đều diễn trọn một ý (một phán đoán). Và
cuối cùng là ý kiến của ông Trần Hoàng (Giáo trình ĐH Huế):Tục ngữ là một loại sáng tác dân gian – một loại câu nói ngắn gọn, có cấu trúc tương đối bền vững và thường có vần, nhịp được dùng trong lời nói, trong sinh hoạt hàng ngày của nhân dân.
Nội dung tục ngữ là những nhận xét phán đoán, những kinh nghiệm, kết luận của nhân dân về tự nhiên, lịch sử – xã hội và con người.
Như vậy, các định nghĩa trên đã giới thuyết nội hàm khái niệm tục ngữ khá rõ ràng và đầy đủ. Theo chúng tôi, tục ngữ là lời ăn tiếng nói của dân gian, thường có dung lượng rất ngắn gọn, nội dung hàm súc mà ở đó, dân gian đã thể hiện trí tuệ sâu sắc và thâm thúy về những kinh nghiệm, triết lý về tất cả mọi lĩnh vực trong đời sống. Để hiểu rõ hơn thể loại này cũng cần đặt nó vào trong sự so sánh giữa thành ngữ và tục ngữ. Dù đã có rất nhiều công trình khoa học đi vào giải quyết vấn đề này nhưng kết quả vẫn chưa như mong muốn mà lý do chủ yếu là vì hầu hết đều thiên về cách nhìn nhận tục ngữ như là một hiện tượng ngôn ngữ hơn là một loại hình văn hóa dân gian độc lập, một hiện tượng ý thức xã hội. Ông Hoàng Trinh (Dẫn theo “Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt Nam” – Phan Thị Đào), thậm chí còn khẳng định ngay cả một số nhà tục ngữ học đầu ngành cũng đã phải thừa nhận là không một định nghĩa nào có thể cho phép xác định rõ ràng như thế nào là một câu thành ngữ, tục ngữ.
Rõ ràng có một hiện tượng là các công trình sưu tầm công phu về thể loại này đã xếp chung thành ngữ và tục ngữ thành “Tự điển thành ngữ – tục ngữ”, hoặc giả tựa đề là Tục ngữ Việt Nam, nhưng nội dung bên trong lại nhập nhằng hai thể loại này.
Xét về phương diện lý thuyết, không thể tách biệt rõ ràng, chính xác ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ. Bởi chúng có mối quan hệ thâm nhập, giao hòa và cách sử dụng linh hoạt ngoài thực tế. Còn xét về phương diện thực tế, có trường hợp, thành ngữ kết hợp với thành ngữ hoặc thành ngữ kết hợp với một số từ để tạo ra một câu tục ngữ. “Rồng đến nhà tôm” là một câu thành ngữ, nhưng “Mấy đời rồng đến nhà tôm” lại là một câu tục ngữ. Hay các câu sau đây đứng độc lập thì chúng tồn tại như những thành ngữ: Thuận buồm xuôi gió; Chén chú chén anh; Lên thác xuống ghềnh; Mày tao chi tớ. Nhưng khi kết hợp chúng lại với nhau thì nó lại là một câu tục ngữ rất thâm thúy và đặc sắc: Thuận buồm xuôi gió (thì) chén chú chén anh (còn khi) lên thác xuống ghềnh (là) mày tao chi tớ.
Tóm lại, ta có thể dựa vào một số tiêu chí cụ thể như sau để phân biệt thành ngữ và tục ngữ. Về hình thức, thành ngữ thể hiện một cụm từ cố định, còn tục ngữ thể hiện bằng câu. Về nội dung, thành ngữ thể hiện khái niệm còn tục ngữ thể hiện một phán đoán. Về chức năng, thành ngữ có chức năng định danh trong khi tục ngữ có chức năng thông báo.
2. Nguồn gốc tục ngữ
Theo nội dung biểu hiện trong từng câu tục ngữ, có thể khái quát thành ba nguồn gốc hình thành tục ngữ.
Đầu tiên, đại bộ phận tục ngữ được hình thành từ sự đúc rút kinh nghiệm trong đời sống lao động sản xuất và chiến đấu của nhân dân, từ trong cuộc sống thực tiễn của nhân dân. Ta có thể kể ra hàng loạt những câu tục ngữ như thế: Ăn kỹ no lâu cày sâu tốt lúa, Con trâu là đầu cơ nghiệp, Làm ruộng có năm chăn tằm có lúc, Tháng bảy heo may chuồn chuồn bay thì bão, Được mùa lúa uá mùa cau được mùa cau đau mùa lúa, Ăn một miếng tiếng một đời, Của như non ăn mòn cũng hết, Bà con vì tổ vì tiên không ai bà con vì tiền vì gạo, Trẻ cậy cha già cậy con, Măng không uốn uốn tre sao được, Miếng ngon nhớ lâu lời đau nhớ đời, Trong nhà chưa tỏ ngoài ngõ đã tường……
Một số tục ngữ được rút ra từ các sáng tác dân gian khác (hay các sáng tác dân gian ra đời để minh họa cho câu tục ngữ?). Trường hợp này, ta có thể tìm thấy tựa đề của một số truyện dân gian là một câu tục ngữ hoặc kết thúc một truyện dân gian là một câu nói có vần có điệu đúc kết chân lý ở đời thông qua câu chuyện kể . Chẳng hạn như Cái kiến mày kiện củ khoai, Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng, Tham thì thâm, Cứu vật trả ơn cứu nhân nhân trả oán, Của thiên trả địa, Bụng làm dạ chịu, Nợ như chúa chổm, Cha mẹ nuôi con biển trời lai láng con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày, Sự giàu mang đến dửng dưng- lọ là con mắt tráo trưng mới giàu, Con vợ khôn lấy thằng chồng dại- như bông hoa lài cắm bãi cứt trâu, To đầu mà dại bé dái mà khôn, Nói dối như cuội….
Ngoài ra, tục ngữ còn hình thành do con đường dân gian hóa những lời hay ý đẹp rút ra từ các tác phẩm văn học viết, những điển tích, điển cố; những lời nói bất hủ của các nhà tư tưởng, văn hóa, các nhà hoạt động nổi tiếng của các thời đại. Trường hợp này dù đã được dân gian hóa nhưng một số trong những câu nói ấy dường như vẫn chưa có một độ lùi lịch sử nhất định để đo độ bền sức sống của nó như một thể loại dân gian đích thực. Tuy nhiên, thực tế tồn tại của những câu nói này trong dân gian đã cho nó một đời sống diễn xướng như những câu tục ngữ do dân gian sáng tác. Thậm chí có trường hợp người dùng đưa vào những tình huống sinh động mà phù hợp của cuộc sống để khai thác tối đa tính chất triết lý của nó mà không hề biết, không hề quan tâm tác giả là ai.
Tức là nó đã được dân gian hóa. Ta có Có tài mà cậy chi tài – Chữ tài liền với chữ tai một vần / Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ / Ngày vui ngắn chẳng tày gang/ Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau … (Nguyễn Du); Còn bạc còn tiền còn đệ tử, hết cơm hết rượu hết ông tôi (Nguyễn Bỉnh Khiêm); Ví không có cảnh đông tàn, thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân / Sự vật vần xoay đà định sẵn, hết mưa là nắng hửng lên thôi / Không có gì quý hơn độc lập tự do / Vì lợi ích mười năm trồng cây, Vì lợi ích trăm năm trồng người (Hồ Chí Minh). Trong số những câu nói của danh nhân được dân gian hóa thành tục ngữ, chúng ta phải kể đến một số câu nói có nguồn gốc, xuất xứ từ nước ngoài, du nhập vào nước ta và được Việt hóa. Trường hợp này cũng khá phổ biến, đặc biệt là kho kinh sách Nho – Phật – Lão với những lời tầm chương trích cú. Ta có các câu như Ôn cố nhi tri tân (Ôn cũ biết mới), Nhân chi sơ tính bổn thiện, Lương y như từ mẫu (Thầy thuốc như mẹ hiền), Time is money (Thời giờ là vàng bạc)…
3. Bản chất thể loại
Ở góc độ ngôn ngữ, tục ngữ là một hiện tượng ngôn ngữ đặc biệt: một cấu trúc ngôn ngữ hoàn chỉnh, hàm súc, ngắn gọn …
Ở góc độ xã hội, tục ngữ là một hiện tượng ý thức xã hội, là tư tưởng nằm trong hệ thống quan niệm của người xưa về cuộc sống.
Ở góc độ nghệ thuật, tục ngữ là một đơn vị thông báo có tính nghệ thuật, là một dạng văn học đặc biệt – “văn học đúc kết kinh nghiệm” (Cao Huy Đỉnh).
4. Nội dung phản ánh của tục ngữ
a. Tục ngữ về lao động sản xuất:
Tục ngữ, như đã nói, hình thành trong thực tiễn lao động, sản xuất của nhân dân. Tục ngữ biểu đạt những kinh nghiệm của con người về công việc lao động và các hiện tượng tự nhiên mà họ tích lũy được trong quá trình lao động sản xuất. Ở một nước nông nghiệp mà khoa học kỹ thuật còn rất thô sơ, công việc phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên – thời tiết, khí hậu như nước ta, những kinh nghiệm được đúc kết và truyền lại cho đời sau trở thành một trong những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Nó giúp cho nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh sinh tồn với tự nhiên, trong lao động ở mọi lãnh vực ngành nghề phong phú khác nhau có thể tự tin hơn, đạt được hiệu quả thành công cao hơn, hạn chế những sai lầm không đáng có, là lời hướng dẫn đáng tin cậy mỗi khi người đời sau vấp phải khó khăn, trở ngại (thường thì sự thất bại bao giờ cũng để lại những bài học kinh nghiệm đáng quý).
Đó là những câu tục ngữ dự báo thời tiết (nắng, mưa, gió, bão…) như
Mau sao thì nắng vắng sao thì mưa / Tháng ba bà già chết cóng / Trăng quần thì hạn trăng tán thì mưa / Tháng bảy heo may chuồn chuồn bay thì bão…;
Những câu tục ngữ nói về những kinh nghiệm trồng trọt, chăn nuôi như
Làm ruộng ba năm không bằng chăn tằm một lứa / Cày ruộng tháng năm xem trăng rằm tháng tám, cày ruộng tháng mười, xem trăng mồng tám tháng tư / Gió đông là chồng lúa chiêm gió may gió bấc là duyên lúa mùa / Khoai ruộng lạ mạ ruộng quen…
Mặc dù phần lớn những câu tục ngữ dân gian chỉ mới dừng lại ở mức độ kinh nghiệm thực tiễn chứ chưa nâng lên thành những kiến thức khoa học hoàn chỉnh. nhưng trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể, những kinh nghiệm ấy, những tri thức ấy trở nên vô cùng quí báu.
Sở dĩ tục ngữ về thời tiết, về lao động sản xuất chiếm một vị trí đáng kể là vì nước ta là một nước nông nghiệp. Nền nông nghiệp ấy đã tồn tại trong một thời gian lạc hậu thủ công thô sơ kéo dài. Nền sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, vào thiên thời địa lợi là chính. Đó là mảnh đất màu mỡ cho tục ngữ mang nội dung này nảy sinh, tồn tại và phát triển. Ta có thể thấy mọi vấn đề liên
quan đến lĩnh vực này trong tục ngữ. Nào là đặc tính các loại lúa (Lúa chiêm bóc vỏ, lúa mùa xỏ tay / Lúa chiêm đào sâu chôn chặt, lúa mùa vừa đặt vừa đi / Chiêm cập cời, mùa đợi nhau…); nào là kinh nghiệm làm mạ (cơm quanh rá, mạ quanh bờ…); nào là kinh nghiệm cày bừa (Nhai kỹ no lâu, cày sâu tốt lúa / Nhất cày ải, nhì rải phân…); rồi thì kinh nghiệm chăm bón (Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân / Một lượt tát, một bát cơm …); rồi thì kinh nghiệm trồng các loại cây khác ( khoai ruộng lạ, mạ ruộng quen)….
Ngoài ra là kinh nghiệm một số ngành nghề khác chẳng hạn như kinh nghiệm đi lưới: Tôm đi chạng vạng, cá đi rạng đông; Kinh nghiệm nuôi tằm: Một nông tằm năm nong kén / Làm ruộng ăn cơm nằm , chăn tằm ăn cơm đứng ; Kinh nghiệm chọn giống gia súc: Lấy vợ xem bà vải, tậu trâu xem con nái đầu đàn / Gà đen chân trắng mẹ mắng cũng mua – Gà trắng chân chì mua chi giống ấy).vv …và vv…
b. Tục ngữ về các hiện tượng lịch sử, xã hội
Không chỉ đúc kết những kinh nghiệm về thời tiết, về lao động sản xuất, tục ngữ Việt Nam còn là một kho tàng về văn hóa, lịch sử dân tộc. Trong tục ngữ, ký ức về một thời lịch sử xa xôi của dân tộc ta được nhắc lại một cách vô cùng sinh động (Ăn lông, ở lỗ; Con dại cái mang; Chồng chung vợ chạ…). Tục ngữ còn ghi lại những hiện tượng, sự kiện lịch sử, những biến đổi về kinh tế, chính trị ảnh hưởng đến nhân dân và các nhân vật lịch sử (Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi / Cờ bay Sơn Đồng, ngựa lồng Chương Dương).
Bên cạnh đó, tục ngữ phản ảnh đời sống của những giai cấp tầng lớp khác nhau trong xã hội phong kiến (Ngồi mát ăn bát vàng / Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột / Con đóng khố, bố cởi truồng / Cá lớn nuốt cá bé / Con giun xéo lắm cũng quằn…). Qua đó, thể hiện rõ quan điểm tư tưởng tình cảm của nhân dân.
Ở tục ngữ, chúng ta còn bắt gặp trong đó đời sống tinh thần phong phú của dân tộc ta. Một phần lớn tục ngữ phản ảnh phong tục, tập quán sinh hoạt của nhân dân các vùng quê khác nhau.(Phép vua thua lệ làng / Đất lề quê thói / Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp / Miếng trầu là đầu câu chuyện / Cha truyền con nối / Chuông làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ / Chồng cô, vợ cậu, chồng dì, ba người ấy chết đều thì không tang…).
c. Tục ngữ về đạo đức truyền thống (Của nhân dân lao động):
Tục ngữ về đạo đức truyền thống (Của nhân dân lao động)
Tục ngữ Việt Nam luôn đề cao quí trọng giá trị của con người (Người ta là hoa của đất / Người sống đống vàng / Một mặt người hơn mười mặt của / Cứu một người hơn xây mười kiểng chùa…); đề cao giá trị của lao động, lao động sáng tạo để làm ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội (Người làm ra của của không làm ra người / Khen nết hay làm, ai khen nết hay ăn / Có làm thì mới có ăn…); đề cao những phẩm chất tốt đẹp của con người như cần cù, nhẫn nại, chung thủy, thật thà, lạc quan, nhân ái trong đối nhân xử thế (Có công mài sắt có ngày nên kim / Còn nước còn tát / Đói cho sạch, rách cho thơm / Chị ngã em nâng/ Lá lành đùm lá rách / Máu chảy ruột mềm / Môi hở răng lạnh / Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ / Thật thà là cha quỷ quái…).
Tóm lại: Tục ngữ được ví như “túi khôn dân gian”, “kho báu của trí tuệ nhân dân”. Chức năng quan trọng và cơ bản nhất của tục ngữ là diễn đạt, truyền bá kinh nghiệm đời sống. Đề tài của tục ngữ rất rộng bao quát hầu như tất cả các lĩnh vực của thực tại. Có thể nói: ở đâu, lĩnh vực nào nhân dân có kinh nghiệm thì ở đó, lĩnh vực đó có tục ngữ.
Trên đây chỉ là một số nội dung tiêu biểu, thiết nghĩ với một kho tàng tục ngữ hết sức đa dạng và phong phú, rộng lớn và sâu sắc, chúng ta cần tìm hiểu thêm để thấy được sự phản ánh rất đầy đủ của tục ngữ về những kinh nghiệm mà nhân dân đã đúc kết được trong đời sống.
5. Đặc điểm thi pháp
a. Tính hàm súc (Lời ít ý nhiều, tiết kiệm ngôn ngữ tới mức tối đa)
Những kinh nghiệm, trí tuệ, tư tưởng của dân gian được thể hiện trong những câu tục ngữ cô đúc. Mỗi câu tục ngữ thường rất ngắn gọn, hàm súc cô đọng, thậm chí tục ngữ còn có khuynh hướng rút gọn đến mức tối đa. Khuynh hướng rút gọn tiếp tục phát huy trong quá trình lưu truyền:
Ví dụ: Nhất nước nhì phân tam cần, tứ giống lại được sử dụng phổ biến thành câu Nước, phân, cần, giống.
Khảo sát kho tàng tục ngữ Việt Nam, ta thấy câu tục ngữ ngắn nhất chỉ có ba tiếng (May hơn khôn, Túng thì tính…) và câu dài nhất chỉ có hai dòng lục bát (Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng bay vừa thì râm).
Vì tục ngữ ra đời và được sử dụng chủ yếu trong giao tiếp, trong lời ăn tiếng nói hằng ngày nên tính ứng dụng trong đời sống của nó rất cao. Thực ra, thể loại nào của văn học dân gian cũng có chức năng thực hành sinh hoạt cả nhưng trường hợp của thể loại tục ngữ đặc biệt ở chỗ nó cũng chính là lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Ngắn gọn để dễ nhớ, dễ lưu truyền. Ngắn gọn để kinh nghiệm truyền lại cho đời sau có thể có một đời sống lâu dài thậm chí vĩnh cửu trong lòng quần chúng nhân dân – những người không phải lúc nào cũng có điều kiện học hành chữ nghĩa đến nơi đến chốn nhưng vốn sống thì rất phong phú. Tục ngữ đã trở thành kho tàng trí tuệ của quần chúng mà ở đó làm sao trong một dung lượng nhỏ nhất nhưng nội dung được chuyển tải nhiều nhất đã trở thành một yêu cầu thử thách sự sáng tạo của thể loại độc đáo mà sâu sắc này. Vì vậy, ngắn gọn nhưng chứa đựng nhiều ý tưởng, tục ngữ đã giúp cho lời nói thêm sâu sắc, diễn đạt một cách tốt nhất những điều khó diễn đạt hoặc không thể diễn đạt thành lời.
b. Giàu hình ảnh hình tượng cụ thể:
Tục ngữ sở dĩ ngắn gọn nhưng lại khơi gợi nhiều ý tưởng phong phú sâu sắc bởi tính cụ thể sống động của những hình ảnh quen thuộc. Những hình ảnh ấy được sử dụng để diễn đạt những kinh nghiệm có tính trừu tượng, khái quát.
Nhờ thế, tục ngữ dễ đi vào trí nhớ của người nghe.
Trong cách diễn đạt, tục ngữ thường sử dụng các biện pháp tu từ miêu tả – so sánh, ẩn dụ, nhân hóa… (Đàn gãy tai trâu / Đũa mốc chòi mâm son / Vỏ quít dày móng tay nhọn / Kiến tha lâu đầy tổ…). Và bao giờ những hình ảnh đó cũng tạo ra sự liên tưởng tức thì đầy hiệu quả mà đôi khi cách nói thẳng vừa dài dòng, vừa khô khan, khó hiểu, khó nhớ. Cách nói giàu hình ảnh, hình tượng cụ thể như thế vừa gợi nghĩa vừa gợi cảm.
Vì sử dụng hình ảnh nên tục ngữ hầu như ít diễn đạt một nghĩa (nghĩa đen, nghĩa thực) mà diễn đạt nhiều nghĩa (nghĩa đen – nghĩa bóng / nghĩa hẹp – nghĩa rộng/ nghĩa trực tiếp – gián tiếp/ nghĩa tường minh – nghĩa hàm ẩn… theo cách nói của khoa ngôn ngữ học).
Một số câu tục ngữ, người nói và người nghe đều muốn truyền đạt và tiếp nhận nghĩa bóng của nó mà thôi (Nồi da nấu thịt / Rút dây động rừng / Rau nào sâu ấy…). Sự phong phú về nét nghĩa nói lên tính chất tiềm ẩn về ngữ nghĩa của tục ngữ rất lớn. Nghĩa đen và nghĩa bóng của tục ngữ đem lại sự nhận thức vừa gần gũi, cụ thể vừa khái quát, sâu sắc.
c. Kết cấu ngữ pháp và quan hệ ngữ nghĩa trong tục ngữ:
Nói đến kết cấu ngữ pháp của tục ngữ, các nhà nghiên cứu cũng có nhiều cách phân chia, chủ yếu là dựa vào cấu trúc ngữ pháp của câu để khảo sát. Vì vậy có câu tục ngữ tương đương với một câu đơn, có câu lại có cấu trúc của một câu ghép (hay còn được gọi là câu phức). Ở đây, cách phân chia sau sẽ đơn giản hóa kết cấu ngữ pháp của tục ngữ hơn. Dù có thể không phải là một cách phân chia tối ưu, nhưng lại là một cách tiếp cận khá bao quát các hình thức ngữ pháp phong phú của tục ngữ. Đó là các loại kết cấu theo vế câu: một vế, hai vế, ba vế trở lên….
Kết cấu một vế gần như là một câu đơn. Chẳng hạn như Con trâu là đầu cơ nghiệp / Người ta là hoa của đất / Lòng vả như lòng sung / Chơi dao có ngày đứt tay / Cái nết đánh chết cái đẹp / Không thầy đố mày làm nên / Trâu buộc ghét trâu ăn….
Bên cạnh đó là kết cấu hai vế, dạng kết cấu này chiếm đa số. Ví dụ như những câu tục ngữ Người tốt vì lụa, lúa tốt vì phân / Ăn trông nồi, ngồi trông hướng/ Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng/ Tấc đất tấc vàng/ Chạy buồm xem gió/ Buôn có bạn, bán có phường/ Cùng nghề đi tát, mạt nghề đi câu/ Thứ nhất cày nỏ, thứ nhì bỏ phân/ Cá không ăn muối cá thối, người không ăn lời người hư/ Mềm nắn rắn buông/ Đàn bà không biết nuôi heo đàn bà nhác, đàn ông không biết nuột lạt đàn ông hư….
Ít phổ biến hơn là kết cấu ba vế. Trường hợp này là các câu như Của làm ra để trên gác, của cờ bạc để ngoài sân, của phù vân để ngoài ngõ / Nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò/ Dạy đĩ vén xống, dạy ông cống vào tràng, dạy bà lang bốc thuốc/ Ba tháng biết lẫy, bẩy tháng biết bò, chín tháng lò dò chạy đi/ Gái một con trông mòn con mắt, gái hai con vú quặt đàng sau, gái ba con thì đâu ngồi đấy/ Hàm chó, vó ngựa, cựa gà, ngà voi….
Phong phú và đa dạng hơn là quan hệ ngữ nghĩa.
Một loại quan hệ ngữ nghĩa rất phổ biến là sự thể hiện bằng những phán đoán khẳng định giản đơn: Người sống đống vàng / Tấc đất tấc vàng/ May hơn khôn / Nhiều tay thời vỗ nên bộp / Là lượt là vợ thông hai, nhễ nhại là vợ học trò / Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa / Chó chê mèo lắm lông / Tửu tam trà nhị / Ăn hết nhiều ở hết bao nhiêu / Cọc tìm trâu / Con gà tức nhau tiếng gáy / Cháy nhà mới ra mặt chuột…
Tuy nhiên, tạo thành một kho tàng kinh nghiệm đầy đặn hơn cả đó là nhờ dân gian đã khéo léo xây dựng các câu tục ngữ bằng cách suy luận dựa trên mối quan hệ giữa các vế.
Quan hệ tương đồng: Đất lề, quê thói / Đường đi hay tối, nói dối hay cùng / Đầu gà má lợn / Ăn vóc học hay / Ăn cơm lừa thóc, ăn cóc bỏ gan / Trẻ cậy cha già cậy con / Lớn thuyền lớn sóng….
Quan hệ tương phản: Được mùa cau đau mùa lúa / Miệng nam mô, bụng bồ dao găm / Được làm vua, thua làm giặc / Tre già măng mọc / Khôn ba năm dại một giờ / Người ăn thì còn, con ăn thì mất / Đàn ông rộng miệng thì sang, đàn bà rộng miệng tan hoang cửa nhà…
Quan hệ điều kiện – nhân quả: Gieo gió gặt bão / Ở hiền gặp lành / Rút dây động rừng / Đời cha ăn mặn đời con khát nước / Chạy buồm xem gió / Có thực mới vực được đạo / Con dại cái mang / Trèo cao ngã đau / Nước chảy đá mòn…
Quan hệ so sánh: Cái răng cái tóc là góc con người / Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống / Một mặt người bằng mười mặt của / Một con sa bằng ba con đẻ / Miếng ăn là miếng nhục / Ăn cơm không rau như đánh nhau không có người gỡ / Đàn ông nông nổi giếng khơi, đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu / Người không học như ngọc không mài / Thương người như thể thương thân / Lễ Phật quanh năm không bằng ngày rằm tháng giêng / Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng…
Quan hệ phụ thuộc: Con sâu làm sầu nồi canh / Môi hở răng lạnh / Quạ tắm thì ráo sáo tắm thì mưa / Măng không uốn uốn tre sao được / Nhà sạch thì mát bát sạch thì ngon….
Quan hệ liệt kê: Thứ nhất phao câu, thứ nhì chéo cánh / Thứ nhất vợ dại trong nhà, thứ nhì nhà dột, thứ ba nợ đòi / Thứ nhất cày nỏ, thứ nhì bỏ phân / Nhất quỉ nhì ma, thứ ba học trò / Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống… )
d. Vần nhịp và tính chất hòa đối trong tục ngữ:
Phần lớn, tục ngữ Việt đều có vần. Vần chính là chất keo gắn liền các yếu tố ngôn từ trong tục ngữ làm thành những kết cấu vững chắc, bền vững làm cho tục ngữ dễ nhớ, dễ thuộc, dễ lưu truyền. Cách gieo vần trong tục ngữ rất phong phú đa dạng. Ta có vần liền (Hay khen hèn chê / Ăn vóc học hay / Cốc mò cò xơi / Ăn chắc mặc bền / Bút sa gà chết); vần cách ( Trẻ lên ba cả nhà học nói / Thứ nhất cày ải thứ nhì rải phân / Không thầy đố mày làm nên/ Khéo ăn thì no khéo co thì ấm. )
Nhịp cũng là một yếu tố quyết định sự bền vững của tục ngữ. Nhịp xuất hiện trong đa số các trường hợp mà giữa các vế có số âm tiết đều nhau tạo nên sự đối xứng giữa các vế: (3/3 ; 2/2 ; 4/4). Nhịp càng giúp tục ngữ (đặc biệt là những câu không có vần) dễ nhớ, dễ truyền ( Ăn cây nào rào cây nấy / Người khôn của khó / Đời cha ăn mặn đời con khát nước. )
Ngoài ra, cách cấu tạo cân đối hài hòa thể hiện dưới nhiều hình thức cụ thể khác nhau như đối thanh, đối ý, đối cân, đối lệch. Chẳng hạn câu tục ngữ Mềm
nắn rắn buông, ta thấy có hiện tượng đối thanh, mềm là thanh bằng, rắn là thanh trắc, nắn là thanh trắc, buông là thanh bằng; đối ý tức là nghĩa của mềm và rắn hoàn toàn trái ngược nhau; còn đối cân tức là câu tục ngữ này có hai vế, mỗi vế có hai âm tiết đều và rất cân đối. Còn câu Xấu như ma – vinh hoa cũng đẹp, ngoài đối thanh và đối ý ra, câu tục ngữ này là một dạng đối lệch – tức là hai vế không đều nhau.
(Nguồn tham khảo: Trần Tùng Chinh, Giáo trình văn học dân gian Việt Nam)