1. Dựa theo lời kể của cô giáo (thầy giáo) và các tranh vẽ dưới đây, kể lại từng đoạn câu chuyện.
- Tranh 1: Một hôm, có anh hàng dầu gánh hàng ra chợ bán. Mãi bán nên bị trộm lấy mất tiền. Anh hàng dầu nhớ hồi nãy có người mù quanh quẩn, anh đoán là hắn lấy. Hai bên xô xát, lính bắt giải lên quan.
- Tranh 2 : Quan đã giải quyết: Quan sai người múc một chậu nước bỏ số tiền vào, một lát sau thấy trên mặt nước có váng dầu. Người mù hết đường chối cãi đành nhận lỗi.
- Tranh 3 : Hồi ấy có bọn cướp chuyên đón đường cướp của. Để bắt bọn cướp, ông sai làm một loại hòm gỗ kín có lỗ thông hơi, có khóa bên trong. Ông tuyển một số võ sĩ, đem theo vũ khí ngồi trong hòm rồi phao tin có quan ở Bắc về cùng những hòm của quý.
- Tranh 4 : Bọn cướp được hí hửng mang hòm về sào huyệt nhưng vừa đặt xuống, các võ sĩ đã xông ra bắt bọn cướp và đưa đi khai khẩn đất hoang ở biên giới, lập ra những đồn điền lớn. Sau đó ông đưa dân làng đến ở dọc hai bên đường khiến vùng rừng núi xưa vắng vẻ nay trở thành những xóm làng đông đúc, bình yên.
2. Kể lại toàn bộ câu chuyện về ông Nguyễn Khoa Đăng.
Một lần, có anh hàng dầu gánh ra chợ bán. Lợi dụng lúc anh bận đong dầu, có kẻ thò tay vào bị lấy trộm tiền. Khi biết bị mất tiền, anh hàng dầu nhớ hồi nãy có một người mù quanh quẩn bên gánh hàng, đuổi mấy cũng không đi. Anh đoán hắn là kẻ cắp, bèn gửi gánh hàng cho người quen rồi đi tìm người mù. Người này ra sức chối, nói rằng mình mù biết tiền để đâu mà lấy. Hai bên xô xát, lính bắt họ giải lên quan án Nguyễn Khoa Đăng.
Thấy người mù khăng khăng chối không ăn cắp tiền, quan hỏi :
- Anh có mang tiền theo không ?
Người mù đáp :
- Có, nhưng là tiền của tôi.
- Cứ đưa đây. Của ai rồi sẽ rõ.
Khi người mù móc tiền ra, quan sai người múc một chậu nước, bỏ số tiền vào chậu. Một lát thấy trên mặt nước có váng dầu nổi lên. Người mù hết đường chối cãi, đành nhận tội.
Vụ án tưởng đã xong, không ngờ quan lại phán :
- Tên ăn cắp này là kẻ giả mù vì nếu mù thật thì làm sao hắn biết người bán dầu để tiền đâu mà lấy.
Ông sai lính nọc tên mù ra đánh, kì đến khi hắn mở mắt mới thôi. Lúc đầu người mù còn chối, chỉ sau 3 roi hắn đành mở cả hai mắt.
Trong thời kì ông Nguyễn Khoa Đăng làm quan án, ở Quảng Trị có truông nhà Hồ là nơi bọn gian phi dùng làm sào huyệt đón người cướp của.
Để bắt bọn cướp, quan sai chế một loại hòm gỗ kín có lỗ thông hơi, vừa một người ngồi, có khóa bên trong để người ở trong có thể mở tung ra dễ dàng. Ông kén một số võ sĩ, đem theo vũ khí, ngồi vào hòm. Rồi sai quân sĩ ăn mặc như dân thường, khiêng những hòm ấy qua truông, ra vẻ như khiêng những hòm của cải nặng. Lại cho người đánh tiếng có một vị quan to ở ngoài Bắc sắp sửa về quê đi qua truông cùng những hòm của cải quý. Bọn cướp đánh hơi, nghĩ đây là cơ hội làm ăn hiếm có, rình lúc đoàn người đi qua cửa truông thì cướp, rồi hí hửng khiêng những hòm nặng ấy về tận sào huyệt.
Về đến nơi, vừa đặt hòm xuống thì những cái hòm bật mở toang, các võ sĩ ngồi trong tay lăm lăm vũ khí bất ngờ xông ra đánh giết bọn cướp. Đang lúc hoảng hốt chưa kịp đối phó thì phục binh của triều đình từ ngoài ùn ùn kéo vào đông như kiến cỏ, bọn cướp đành chắp tay xin tha mạng.
Bọn cướp ấy, Nguyễn Khoa Đăng đưa đi khai khẩn đất hoang ở biên giới, lập thành những đồn điền rộng lớn. Sau đó, ông đưa dân đến lập làng xóm ở dọc hai bên truông khiến một vùng núi rừng xưa vắng vẻ trở thành những xóm làng dân cư đông đúc, bình yên.
3. Theo em, những biện pháp mà ông Nguyễn Khoa Đăng dùng để tìm kẻ ăn cắp và trừng trị bọn cướp đường tài tình ở chỗ nào ?
- Biện pháp dùng để tìm kẻ ăn cắp:
- Ông cho bỏ tiền vào nước để xem có váng dầu nổi lên không.
- Ông còn phân tích: chỉ có kẻ sáng mắt mới biết người bán dầu để tiền ở đâu mà lấy, nên đã lột được mặt nạ tên ăn cắp giả ăn mày, giả mù.
- Biện pháp trừng trị bọn cướp đường:
- Mưu kế đánh vào lòng tham của bọn ăn cướp, làm chúng bất ngờ, không nghĩ được là chính chúng khiêng các võ sĩ về tận sào huyệt để tiêu diệt chúng.
- Được tổ chức rất chu đáo, phối hợp trong ngoài; các võ sĩ xông ra đánh giết bọn cướp từ bên trong, phục binh triều đình từ bên ngoài ùn ùn kéo vào, khiến bọn cướp khiếp hãi đành chắp tay hàng phục.
4. Ý nghĩa của câu chuyện
Ca ngợi ông Nguyễn Khoa Đăng thông minh, tài trí, giỏi xét xử các vụ án, có công trừng trị bọn cướp, bảo vệ cuộc sống yên bình cho nhân dân.