Câu 2: (Trang 91 - SGK Ngữ văn 10) Các bài 2,3,4: Tiếng cười trong ba bài ca dao có gì khác với tiếng cười ở bài 1? Tác giả dân gian cười những con người nào trong xã hội, nhằm mục đích gì, với thái độ ra sao? Trong cái chung đó, mỗi bài lại có nét riêng thể hiện nghệ thuật trào lộng sắc sảo của người bình dân. Hãy phân tích làm rõ vẻ đẹo riêng của mỗi bài ca dao.
Bài Làm:
Các bài 2,3,4: Tiếng cười trong ba bài ca dao khác với tiếng cười ở bài 1, ở mỗi bài là sự chế giễu một loại người trong xã hội:
- Bài 2. Chế giễu loại đàn ông yếu đuối, không đáng với sức trai khỏe mạnh. Tiếng cười bật ra nhờ nghệ thuật phóng đại kết hợp với thủ pháp đối lập. Có thể có những chàng trai yếu đuối, nhưng không ai lại yếu đuối đến mức chỉ gánh nổi… có hai hạt vừng. Ngoài ra, tính hài hước là ở chỗ phải khom lưng chống gối (có nghĩa là ráng hết sức) chỉ để gánh hai hạt vừng.
- Bài 3. Chế giễu loại đàn ông lười nhác, không có chí lớn. Bài ca dao sử dụng biện pháp so sánh, nêu lên sự đối lập giữa "chồng người" với "chồng em". Hình ảnh người đàn ông "ngồi bếp sờ đuôi con mèo" là tiêu biểu cho loại đàn ông lười nhác, chỉ biết ngồi ở xó nhà, ăn bám vợ. Bài ca dao vừa mang tính hài hước vừa mang tính phê phán sâu sắc.
- Bài 4 là bài ca dao chế giễu loại phụ nữ đỏng đảnh, vô duyên. Tiếng cười của bài ca dao lại một lần nữa chủ yếu được xây dựng dựa trên nghệ thuật phóng đại và những liên tưởng phong phú của tác giả dân gian. Đằng sau tiếng cười hài hước, giải trí, mua vui, tác giả dân gian vẫn muốn thể hiện một lời châm biếm nhẹ nhàng tới loại phụ nữ vô duyên đỏng đảnh - một loại người không phải không có trong xã hội. Tác giả dân gian đã nhìn họ bằng con mắt nhân hậu, thông cảm, qua con mắt của người chồng yêu vợ nên tất cả điều xấu của nhân vật đều hóa thành tốt (lông mũi / râu rồng trời cho; ngáy o o/cho vui nhà; ăn quà/đỡ cơm; rác rơm /hoa thơm).