1. NHẬN BIẾT (4 câu)
Câu 1: Hãy nêu những đặc điểm cơ bản của bi kịch.
Câu 2: Hãy trình bày những thông tin cơ bản về tác giả Nguyễn Huy Tưởng.
Câu 3: Tóm tắt nội dung đoạn trích.
Câu 4: Có một số câu nói bị ngắt thành nhiều quãng của Đan Thiềm (ở lớp VII) và Vũ Như Tô (ở lớp VIII). Hãy tìm và phân tích giá trị nghệ thuật của những câu ngắt quãng ấy.
Bài Làm:
Câu 1:
– Bi kịch là một thể của loại hình kịch, đối lập với hài kịch.
– Ngoài các đặc điểm chung của loại, bi kịch còn mang những đặc điểm riêng của thể. Những đặc điểm riêng này thể hiện qua xung đột, nhân vật và qua nhiều yếu tố khác của bi kịch.
– Xung đột bi kịch được tạo dựng từ những mâu thuẫn "không thể giải quyết" và mọi cách khắc phục mâu thuẫn đều dẫn đến "sự diệt vong những giá trị quan trọng".
– Nhân vật bi kịch mang trong mình không chỉ những say mê, khát vọng lớn lao mà còn mang cả những lầm lạc trong hành động và tư duy. Không bao giờ chịu khuất phục hoàn cảnh, nhân vật bi kịch bướng bỉnh vùng lên chống lại số phận, thách thức số phận.
– Bi kịch miêu tả thực tại theo lối nhấn mạnh, cỏ đặc các mâu thuẫn bên trong, phơi bày những xung đột sâu sắc của thực tại dưới dạng bão hoà và căng thẳng đến cực độ, mang ý nghĩa tượng trưng nghệ thuật. Tác phẩm bi kịch thường đặt độc giả trước những câu hỏi phức tạp, hóc búa, nhức nhất của cuộc sống.
– Các vở bi kịch tiêu biểu: Rô-mê-ô và Giu-li-ét (Sếch-xpia), Vũ Như Tô (Nguyễn Huy Tưởng),...
Câu 2:
– Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) xuất thân trong một gia đình nhà nho, quê ở làng Dục Tú, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay là xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội). Ông sớm tham gia cách mạng, hoạt động trong những tổ chức văn hoá văn nghệ do Đảng lãnh đạo (năm 1943, tham gia Hội Văn hoá cứu quốc; tháng 8 – 1945, là đại biểu Văn hoá cứu quốc đi dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào). Nguyễn Huy Tưởng có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử và có đóng góp nổi bật ở thể loại tiểu thuyết và kịch. Văn phong của ông vừa giản dị, trong sáng, vừa đôn hậu, thâm trầm, sâu sắc. Năm 1996, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
– Tác phẩm chính của Nguyễn Huy Tưởng: các vở kịch Vũ Như Tô (1941), Bắc Sơn (1946), Những người ở lại (1948), kịch bản phim Luỹ hoa (1960); các tiểu thuyết Đêm hội Long Trì (1942), An Tư (1945), Sống mãi với Thủ đô (1961); kí: Kí sự Cao – Lạng (1951),...
Câu 3:
– Lợi dụng tình hình rối ren và mâu thuẫn ấy, Trịnh Duy Sản cầm đầu một phe cánh đối nghịch trong triều đình đã dấy binh nổi loạn, lôi kéo thợ thuyền làm phản, giết Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm và thiêu huỷ Cửu Trùng Đài.
– Biết tin có binh biến, bạo loạn trong phủ chúa, nguy hiểm đến tính mạng Vũ Như Tô, Đan Thiềm hết lời khuyên và giục ông đi trốn. Nhưng Vũ Như Tô khăng khăng không nghe vì tự tin mình "quang minh chính đại", "không làm gì nên tội" và hi vọng ở chủ tướng An Hoà Hầu. Tình hình càng lúc càng nguy kịch: Lê Tương Dực bị giết, đại thần, hoàng hậu, cung nữ của y cũng vạ lây, Đan Thiềm bị bắt,... Kinh thành điên đảo. Khi quân khởi loạn đốt Cửu Trùng Đài thành tro, Vũ Như Tô mới tỉnh ngộ. Ông trơ trọi, đau đớn vĩnh biệt Cửu Trùng Đài rồi bình thản ra pháp trường.
Câu 4:
- a) Trong đoạn trích, có hai câu nói bị ngắt quãng thành nhiều đoạn, một của Đan Thiềm (lớp VII), một của Vũ Như Tô (lớp VIII).
– Lời của Đan Thiềm hai lần bị ngắt quãng "– Tướng quân tha..." (quân khởi loạn xúm vào trói và nhục mạ nàng, cắt ngang câu nói của nàng) "... Tha cho ông Cả”; "Xin tướng quân..." (Ngô Hạch lại ngắt lời Đan Thiềm).
– Tương tự, lời Vũ Như Tô cũng ba lần bị ngắt quãng: "[...] ta không có tội và chủ tướng các người sẽ cởi trói cho ta để ta xây nốt Cửu Trùng Đài, dựng một kì công muôn thuở...", "... Vài năm nữa [...], có một cảnh Bồng Lai...", "xuất hiện...".
- b) Giá trị nghệ thuật của những câu nói bị ngắt quãng này:
– Tô đậm tính cách quên mình vì Vũ Như Tô của Đan Thiềm, lòng thiết tha với nghệ thuật, với Cái Đẹp và tính cách mù quáng, ảo vọng của Vũ Như Tô.
– Góp phần tái hiện thanh thế của phe nổi loạn (đảng ác), không khí bi kịch lịch sử, nhịp điệu gấp gáp của cơn binh biến phũ phàng.
…