Câu hỏi tự luận mức độ nhận biết Ngữ văn 11 kết nối bài 3: Một thời đại trong thi ca (Trích Thi nhân Việt Nam) Hoài Thanh

1. NHẬN BIẾT (5 câu)

Câu 1: Trình bày những thông tin cơ bản về tác giả Hoài Thanh.

Câu 2: Đọc kĩ và nêu dàn ý của đoạn trích.

Câu 3: Tìm hiểu cách lập luận chặt chẽ của tác giả khi định nghĩa về thơ mới.

Câu 4: Hoài Thanh hiểu như thế nào về nội dung của chữ tôi và chữ ta?

Câu 5: Hãy trình bày những hiểu biết của em về phê bình văn học.

Bài Làm:

Câu 1: 

– Hoài Thanh (1909 – 1982) tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyên. Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Trước Cách mạng, thời còn đi học, ông từng tham gia phong trào yêu nước và bị thực dân Pháp bắt giam. Ông viết văn từ những năm 30 của thế kỉ XX. Tháng 8 năm 1945, ông tham gia khởi nghĩa và làm Chủ tịch Hội Văn hoá cứu quốc ở Huế. Sau Cách mạng tháng Tám, ông hoạt động chủ yếu trong ngành Văn hoá – Nghệ thuật và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng: Tổng thư kí Hội Văn hoá cứu quốc Việt Nam, Hội Văn nghệ Việt Nam, Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật, Tổng thư kí Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam, Chủ nhiệm tuần báo Văn nghệ,...

– Hoài Thanh là nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Ông là tác giả của nhiều công trình có giá trị: Văn chương và hành động (1936), Thi nhân Việt Nam (1942), Có một nền văn hoá Việt Nam (1946), Quyền sống của con người trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du (1949), Nói chuyện thơ kháng chiến (1950), Phê bình và tiểu luận (3 tập – 1960, 1965, 1971). Trong đó Thi nhân Việt Nam là công trình được đánh giá xuất sắc nhất. Năm 2000, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

 

Câu 2:

Dàn ý của đoạn trích: luận điểm bao trùm cả đoạn trích này là vấn đề "tinh thần thơ mới". Nó được triển khai thành ba nội dung chính sau đây:

  1. a) Giới thuyết nguyên tắc để xác định tinh thần của hai thời đại thơ:

– Không căn cứ vào cục bộcái dở của thơ mỗi thời.

– Phải căn cứ vào đại thểcái hay của thơ mỗi thời.

  1. b) Xác định tinh thần thơ mới là chữ tôi, tinh thần thơ xưa là chữ ta:

– Giới thuyết chung về điểm giống và khác của chữ ta và chữ tôi.

– Xác định bản chất: ta là ý thức đoàn thể, tôi là ý thức cá nhân.

– Điểm qua về sự xuất hiện của chữ tôi và phản ứng của xã hội trong quá trình tiếp nhận nó.

  1. c) Nhìn nhận sự vận động của thơ mới xung quanh cái tôi và bi kịch của nó:

– Chỉ ra tính chất tội nghiệp của cái tôi trong thời đại mình.

– Các hướng lớn của thơ mới đào sâu vào cái tôi.

– Điểm thiếu hụt trong ý thức của cái tôi.

– Bi kịch thời đại cái tôi và giải pháp cho bi kịch bằng lòng yêu tiếng Việt.

 

Câu 3: 

– Để định nghĩa về thơ mới trong đoạn trích này, Hoài Thanh đã có những bước lập luận chặt chẽ như sau:

Bước 1. Nêu nguyên tắc chung của việc định nghĩa là:

  1. a) Chỉ căn cứ vào cái hay, không căn cứ vào cái dở.
  2. b) Chỉ căn cứ vào đại thể, không căn cứ vào tiểu tiết.

(Cái dởtiểu tiết không đủ tư cách để đại diện cho nghệ thuật và cho những thời đại lớn của nghệ thuật).

Bước 2. Nêu ra định nghĩa về tinh thần thơ mới bằng cách đối sánh:

  1. a) Tinh thần thơ cũ gồm trong chữ ta.
  2. b) Tinh thần thơ mới gồm trong chữ tôi.

(Có nói chỗ giống nhau, nhưng hướng trọng tâm vào chỗ khác nhau của hai chữ này).

Bước 3. Luận giải về nội dung và biểu hiện của hai chữ tatôi.

  1. a) Chữ ta với biểu hiện và số phận của nó trong thời đại thơ cũ trước kia.
  2. b) Chữ tôi với biểu hiện chữ tôi và số phận đầy bi kịch của nó trong thời đại thơ mới này.

– Như vậy qua ba bước trên, người ta thấy Hoài Thanh đã tuân theo trật tự: từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ khái quát đến cụ thể, từ diện mạo (trong không gian) đến diễn biến lịch sử (trong thời gian). Các bước, với trật tự ấy, rất đảm bảo tính lô gích của tư duy. Vì vậy mà khả năng thuyết phục rất cao. Đây là một ưu thế của văn nghị luận.

 

Câu 4: 

– Nội dung của chữ tôi là ý thức cá nhân trong đời sống tinh thần con người.

– Nội dung của chữ ta là phần ý thức cộng đồng (chữ dùng của Hoài Thanh là "đoàn thể") trong đời sống tinh thần của con người.

– Hai ý thức này là hai tiếng nói tồn tại trong đời sống tinh thần của mỗi người. Ở thời trước, cái ta lấn át hoàn toàn, cái tôi không có cơ để nảy nở. Còn thời đại này, cái tôi trỗi dậy giành quyền sống. Phong trào Thơ mới nảy sinh từ sự trỗi dậy của cái tôi đó.

 

Câu 5: 

Tham khảo:

– Phê bình văn học là một bộ phận của văn học, có chức năng phẩm bình, đánh giá và lí giải các hiện tượng văn học như tác phẩm, tác giả, khuynh hướng, trào lưu văn học. Do đó, phê bình văn học là sự tự nhận thức của văn học, thể hiện trình độ ý thức của một nền văn học. Phê bình văn học phải dựa trên cơ sở những cảm thụ tinh tế, phong phú trước những giá trị văn chương; nhưng cải đích của phê bình văn học là phải đưa ra được những nhận định đúng đắn về các hiện tượng văn học. Vì đối tượng của phê bình văn học là sản phẩm nghệ thuật, nên phải có sự rung cảm với nghệ thuật thì mới đánh giá đúng được. Vì thế, mỗi bài phê bình văn học đích thực bao giờ cũng vừa là công trình khoa học, vừa có tính nghệ thuật nhất định. Trong diễn đạt, văn phê bình cũng thường kết hợp được cả hai yêu cầu: vừa chính xác, chặt chẽ, vừa giàu cảm xúc, hình ảnh.

– Trong thực tế, có những bài phê bình văn học nghiêng về trình bày những cảm xúc, ấn tượng cả nhân đậm chất chủ quan của người viết, gần gũi với văn sáng tác (chẳng hạn, các bài tựa cho các tập thơ văn, bài bình văn, bình thơ hay chân dung văn học,...). Lại có bài nghiêng về luận giải, cắt nghĩa một cách khách quan các hiện tượng văn học, gần gũi với văn lí luận nghiên cứu (chẳng hạn, những bài phân tích toàn bộ sự nghiệp của một tác giả, phản tích các khuynh hướng, các trào lưu văn học....). Lịch sử phê bình từ xưa đến nay đã xuất hiện nhiều khuynh hướng phê bình. Có lối phẩm bình tuỳ hứng, dựa hoàn toàn vào ấn tượng chủ quan, có lối phê bình tuân theo những phương pháp khoa học: phê bình theo lổi triết học, xã hội học, ngôn ngữ học, kí hiệu học, văn hoá học,.... Những khuynh hướng và phương pháp ấy đã làm cho đời sống phê bình thật phong phú, đa dạng.

– Phê bình văn học có vai trò tích cực đối với đời sống văn học. Trên cơ sở khám phá và khẳng định những giá trị chân chính, phê phán những mặt yếu kém trong văn học, phê bình bao giờ cũng góp phần bồi dưỡng và nâng cao trình độ thẩm mĩ cho người đọc, góp phần tác động tích cực đến hoạt động của người sáng tác. Không phải vô cớ mà người ta đã coi phê bình là bạn đồng hành của sáng tác. Có thể kể đến nhiều nhà phê bình văn học tên tuổi như Xanh-tơ Bơ-vơ (Pháp), Bi-ê-lin-xki (Nga), Kim Thánh Thần, Viên Mai (Trung Quốc), Hoài Thanh (Việt Nam)....

Xem thêm Bài tập & Lời giải

Trong: Câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 kết nối bài 3: Một thời đại trong thi ca (Trích Thi nhân Việt Nam) Hoài Thanh

2. THÔNG HIỂU (5 câu)

Câu 1: Lòng yêu nước của các nhà thơ mới và của tác giả Thi nhân Việt Nam thể hiện tập trung nhất ở điểm nào?

Câu 2: Tìm hiểu, nhận xét về cách lập luận của Hoài Thanh khi phân biệt thơ mới và thơ cũ. Tác giả hiểu như thế nào về nội dung của chữ tôi và chữ ta?

Câu 3: Lòng yêu thơ và tình yêu nước của các nhà thơ mới (cũng chính là của tác giả Thi nhân Việt Nam) thể hiện tập trung nhất ở điểm nào? Hãy phân tích đặc sắc của lời văn diễn tả tình cảm này của Hoài Thanh.

Câu 4: Phân tích vì sao tác giả nói “chữ tôi, với cái nghĩa tuyệt đối của nó” lại “đáng thương” và … “tội nghiệp”.

Câu 5: Em hiểu như thế nào ý của Hoài Thanh khi nhận định về thơ mới là “nó đáng thương... nó tội nghiệp quá...”?

Xem lời giải

3. VẬN DỤNG (3 câu)

Câu 1: Em có nhận xét gì về cách dẫn dắt và cách diễn đạt của tác giả?

Câu 2: Đoạn văn "Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. [...] Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận" có gì đặc sắc về nội dung và nghệ thuật? Hãy phân tích để làm nổi bật những nét đặc sắc ấy.

Câu 3: Hãy phân tích những nét đặc sắc trong lời văn phê bình của Hoài Thanh ở đoạn trích này.

Xem lời giải

4. VẬN DỤNG CAO (2 câu)

Câu 1: a) Anh (chị) có nhận xét gì về cách dẫn dắt và cách diễn đạt của tác giả.

  1. b) Phân tích một đoạn trong Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh:

"Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.

Cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn ta.

Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế. Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thời trước.

Thời trước, dầu bị oan khuất như Cao Bá Nhạ, dầu bị khinh bỏ như cô phụ trên bến Tầm Dương, vẫn còn có thể nương tựa vào một cái gì không di dịch. Ngày nay lớp thành kiến phủ trên linh hồn đã tiêu tan cùng lớp hoa hoè phủ trên thi tử. Phương Tây đã giao trả hồn ta lại cho ta. Nhưng ta bàng hoàng vì nhìn vào đó ta thấy thiếu một điều, một điều cần hơn trăm nghìn điều khác: một lòng tin đầy đủ.

Đó, tất cả cái bi kịch đương diễn ngấm ngầm, dưới những phù hiệu dễ dãi, trong hồn người thanh niên".

  1. c) Đoạn văn "Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi [...] Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận" có gì đặc sắc? Hãy phân tích làm nổi bật nét đặc sắc ấy.
  2. d) So sánh với một vài đoạn văn khác để thấy được lối phê bình biến hoá, uyển chuyển của Hoài Thanh (chẳng hạn đoạn: "Ngày thứ nhất – ai biết đích ngày nào – chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thực bỡ ngỡ [...] ở phương Tây, nhất là từ khi có đạo Thiên Chúa, không bao giờ cá nhân lại bị rẻ rúng đến thế").

Câu 2: Có ý kiến cho rằng “với thơ mới, thi ca Việt Nam bước vào một thời đại mới”. Em hiểu ý kiến trên như thế nào?

Xem lời giải

Xem thêm các bài Soạn ngữ văn 11 tập 1 kết nối tri thức, hay khác:

Để học tốt Soạn ngữ văn 11 tập 1 kết nối tri thức, loạt bài giải bài tập Soạn ngữ văn 11 tập 1 kết nối tri thức đầy đủ kiến thức, lý thuyết và bài tập được biên soạn bám sát theo nội dung sách giáo khoa Lớp 11.

Lớp 11 | Để học tốt Lớp 11 | Giải bài tập Lớp 11

Giải bài tập SGK, SBT, VBT và Trắc nghiệm các môn học Lớp 11, dưới đây là mục lục các bài giải bài tập sách giáo khoa và Đề thi chi tiết với câu hỏi bài tập, đề kiểm tra 15 phút, 45 phút (1 tiết), đề thi học kì 1 và 2 (đề kiểm tra học kì 1 và 2) các môn trong chương trình Lớp 11 giúp bạn học tốt hơn.