Đề bài: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Trích Chinh phụ ngâm) của Đoàn Thị Điểm để thấy được nỗi cô đơn, buồn khổ của người chinh phụ và khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của nàng.
Bài Làm:
“Em trở về đúng nghĩa trái-tim-em
Biết khao khát những điều anh mơ ước
Biết xúc động qua nhiều nhận thức
Biết yêu anh và biết được anh yêu”
Đó là những vần thơ mà Xuân Quỳnh đã viết trong bài “Tự hát”. Dường như ở bất cứ một thời đại nào, người phụ nữ cũng khát khao được hưởng hạnh phúc, nhưng không phải lúc nào điều đó cũng có thể trở thành hiện thực. Điều đó đã được phản ánh trong đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” (Trích Chinh phụ ngâm) của Đoàn Thị Điểm, thông qua nỗi cô đơn, buồn khổ của người chinh phụ và khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của nàng.
Thời đại của bài thơ là thời kì mà chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến diễn ra liên miên và phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra khắp nơi, nhà nhà sống trong cảnh loạn lạc, khói lửa, đâu đâu cũng thấy cảnh lầm than, tang tóc. Chính điều này đã tạo nên nỗi niềm của người chinh phụ có chồng ra trận, tác giả đã đã để cho người đọc cảm nhận nỗi đau thương trong chiến tranh của cả hai phía người ra trân và người ở lại.
Nỗi cô đơn, buồn khổ ấy trước hết được thể hiện thông qua tâm trạng của người chinh phụ trong tình cảnh cô đơn, lẻ loi, ngày qua ngày mong ngóng tin chồng:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?”
Nỗi niềm trăn trở không yên của nhân vật trữ tình được tác giả phổ vào các hành động bồn chồn, lo lắng lặp đi lặp lại không dứt. Người chinh phụ "ngồi rèm thưa" mà trông ra ngoài ngóng đợi tin chồng nhưng chẳng thấy đâu. Cuộc sống nơi "trong rèm" chính là sự bó buộc, trói buộc trong một không gian chật hẹp, tù đọng. Để rồi cuối cùng, một mình nàng đối diện với ngọn đèn khuya. Tình cảnh của người chinh phụ quá lẻ loi, đơn chiếc. Ngày thì khắc khoải chờ mong. Đêm dài câm lặng, biết riêng lòng mình:
“Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiếp mà thôi
Buồn rầu chẳng nói nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”
Lúc đầu, nàng nghĩ may ra chỉ có ngọn đèn biết tâm sự của mình, sau đó, nàng nhận ra rằng nỗi sầu thương vẫn chẳng được san sẻ nên lòng nàng càng đau khổ. Hình ảnh người chinh phụ thầm gieo từng bước ngoài hiên vắng và ngồi một mình với ngọn đèn trong phòng đã cực tả nỗi cô đơn trong tình cảnh lẻ loi. Điệp ngữ bắc cầu “đèn biết chăng”, “đèn có biết” khiến nỗi buồn đau, thương nhớ của người chinh phụ thêm da diết, day dứt. Trong tâm trạng đó, nàng đối diện với ngọn đèn dầu, mong muốn được thấu hiểu, được chia sẻ tâm tư.
Bức chân dung người phụ nữ ấy không chỉ gợi lên qua những bước chân, động tác, cử chỉ, qua gương mặt buồn rầu, qua dáng ngồi bất động trước ngọn đèn khuya mà còn nổi bật lên trên nền của không gian và thời gian:
“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”
Tiếng gà gáy trong đêm gợi ra khoảng không mênh mông, hiu quạnh, khiến người phụ nữ cô đơn, lẻ loi trở nên nhỏ bé, đáng thương. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh đẩy tâm trạng người chinh phụ lên một nấc thang mới, khiến nó đau đớn hơn, cô độc hơn, dày vò nàng hơn. Không chỉ có tiếng gà gáy khiến nàng trằn trọc, bóng “hòe phất phơ“ cũng khiến người chinh phụ suy tư, lo nghĩ, từ tính từ “phất phơ“ đến động từ “rủ“, tất cả mang sắc thái chán chường, ủ rũ. Ngoài ra, chỉ thêm hai từ láy “dằng dặc” và “đằng đẵng” nhưng sự chán chường, mệt mỏi kéo dài vô vọng của người chinh phụ trở nên thật cụ thể, hữu hình và có cả chiều sâu trong đó. Kể từ khi chinh phu ra đi, một ngày trở nên dài lê thê như cả một năm, những mối lo toan, nỗi buồn sầu như đông đặc, tích tụ đè nặng lên tâm hồn người phụ nữ đáng thương ấy.
“Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,
Gương gượng soi, lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.”
Người chinh phụ gắng tìm cách vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn, nhưng rốt cuộc vẫn không thoát nổi. Mùi hương trầm đã vô tình đưa nàng trở về những tháng ngày hạnh phúc trước kia, để tâm hồn nàng lạc đi tìm những kí ức đẹp quá xa vời. Nhưng càng tiếc nuối quá khứ tươi đẹp, nhân vật trữ tình càng thấm thía bi kịch hiện tại; lúc soi gương thì lại không cầm được nước mắt. Cảm thấy việc đốt hương, soi gương không thể giúp quên đi chuyện buồn, người chinh phụ tìm đến tiếng đàn. Tác giả sử dụng một loạt hình ảnh ước lệ như “sắt cầm”, “dây uyên”, “phím loan” tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, cho vợ chồng hòa hợp. Người chinh phụ lo sợ dây đàn đứt, báo điều chẳng lành về cuộc hôn nhân đang bị chia cắt, về người chồng ngoài chiến trường bặt vô âm tín. Điệp từ “gượng” cho thấy sự cố gắng gượng gạo, chán nản ở người chinh phụ, nàng vùng vẫy trong nỗi cô đơn nhưng lại bị chính nỗi cô đơn bóp chặt.
Không chỉ đau khổ, nàng còn cảm thấy cô đơn cùng cực, bởi nàng muốn được gặp chồng mình, nhưng lại không thể. Nỗi nhớ người chinh phu cứ thế mà dâng đầy. Nỗi nhớ thương thật tha thiết:
“Lòng này gửi gió đông có tiện ?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.”
Những hình ảnh có tính tượng trưng ước lệ như “gió đông”, “non Yên”, “trời thăm thẳm” vừa gợi ra không gian rộng lớn vô tận nói lên khoảng cách xa xôi giữa chinh phu và chinh phụ vừa biểu đạt được tấm lòng chân thành, nỗi nhớ nhung vô hạn của người vợ nơi quê nhà.
“Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun.”
Chinh phụ nhìn cảnh vật bằng đôi mắt chất chứa buồn thương nên thấy bất cứ cái gì cũng gợi dậy bao nỗi đoạn trường. Trong bức tranh mùa đông được gợi mở, tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh bất ngờ để cực tả nỗi sầu muộn và cảm giác lạnh lẽo trong lòng người phụ nữ:
“Sương như búa bổ mòn gốc liễu
Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô”
Nỗi đau đớn sầu muộn ấy khi thì nặng nề như búa bổ, khi thì nặng nề như cưa xẻ còn “gốc liễu” “cảnh ngô” ấy phải chăng chính là hiện thân của người phụ nữ đang mòn mỏi chờ chồng.
“Giọt sương phủ bụi chim gù
Sâu tường kêu vẳng chuông chùa nện khơi”
Tiếng chim gù trong bụi cây sương phủ, tiếng sâu tường kêu vẳng trong đêm sương, tiếng chuông chùa từ xa “nện” lại như những cơn sóng dữ dội, tha thiết và nhức nhối đang cuộn lên trong lòng người phụ nữ ấy. Tất cả những âm thanh như đang xoáy sâu vào tâm hồn, ăn mòn tâm trí của chinh phụ.
Nhưng người chinh phụ không phải chỉ có cô đơn và buồn khổ; ẩn sâu trong đó là nỗi khát khao được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi:
“Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên
Lá màn lay động gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm
Hoa đãi nguyệt, nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiêt đâu”
Chữ thốc rất mạnh trong câu "Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên" báo hiệu sự chuyển sang một tâm trạng mới ở người chinh phụ. Cảnh hoa - nguyệt giao hoà khiến lòng người rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi. Bức tranh hoa nguyệt lộng lẫy ấy đã được nhà thơ khắc họa bằng thủ pháp trùng điệp liên hoàn tạo ra những hình ảnh lồng xoáy vào nhau, những lớp hình ảnh giao hòa. Cùng với hình ảnh, âm điệu của lời thơ cũng trở nên tha thiết, nồng nàn như những con sóng của niềm khao khát đang dâng lên trong lòng người chinh phụ. Đến đây, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã đạt đến mức điêu luyện. Có thể nói, đoạn thơ trên đã thể hiện hết sức tế nhị những khao khát thầm kín và mãnh liệt của người chinh phụ – đó cũng là những khát vọng trần thế và nhân bản của con người.
Không chỉ xuất sắc về mặt nội dung, tác phẩm còn là kết tinh của giá trị nghệ thuật đặc sắc. Cụ thể ở đây, bản dịch của Đoàn Thị Điểm đã khéo léo sử dụng hàng loạt từ láy: gà eo óc, hòe phất phơ, khắc giờ đằng đẵng, mối sầu dằng dặc, hồn mê mải, lệ châu chan, trời thăm thẳm, nhớ đau đáu,... Ngoài ra, nhà thơ đã phát huy một cách tài tình nhạc điệu trầm bổng, du dương của thể song thất lục bát giống như những đợt sóng dào dạt diễn tả tâm trạng người chinh phụ hết nhớ lại thương, hết thương lại nhớ trong tình cảnh lẻ loi đơn chiếc.
Dù là ở thời đại nào, người phụ nữ cũng xứng đáng được hưởng hạnh phúc, không một thế lực nào có quyền được cướp đi khát vọng ấy. Đó chính là điều mà nhà thơ muốn nhắn gửi thông qua bài thơ này. Với thông điệp này, bài thơ không chỉ có ý nghĩa trong thời đại mà nó soi chiếu, mà nó còn có giá trị trong cả thời đại ngày nay.
=> Trên đây là bài viết tham khảo. Tuy nhiên, nếu bạn học sinh nào muốn viết theo ý mình thì ConKec có dàn ý để các bạn dễ viết bài.
1. Mở bài
- Giới thiệu đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Trích Chinh phụ ngâm) của Đoàn Thị Điểm
- Khái quát nỗi cô đơn, buồn khổ của người chinh phụ và khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của nàng.
2. Thân bài
- Lý do bắt nguồn cho nỗi đau khổ và khát vọng của người chinh phụ: chiến tranh giữa những thế lực phong kiến.
- Nỗi cô đơn, buồn khổ ấy trước hết được thể hiện thông qua tâm trạng của người chinh phụ trong tình cảnh cô đơn, lẻ loi, ngày qua ngày mong ngóng tin chồng:
- 4 câu đầu: Sự mong ngóng, đợi chờ trong vô vọng của người chinh phụ
- Câu 5 đến câu 8: Nhận ra không ai để mình có thể chia sẻ nỗi buồn, sự đau khổ càng tăng lên. Cực tả nỗi cô đơn trong tình cảnh lẻ loi.
- Câu 9 đến câu 12: Nỗi buồn nổi bật lên trên nền của không gian và thời gian
- Câu 13 đến câu 16: Người chinh phụ gắng tìm cách vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn, nhưng rốt cuộc vẫn không thoát nổi.
- Không chỉ đau khổ, nàng còn cảm thấy cô đơn cùng cực, bởi nàng muốn được gặp chồng mình, nhưng lại không thể. Nỗi nhớ người chinh phu cứ thế mà dâng đầy.
- Câu 17 đến câu 20: Nỗi nhớ mong muốn được nhắn gửi, nhưng lại xa vời vì khoảng cách
- Câu 21 đến câu 24: Chinh phụ nhìn cảnh vật bằng đôi mắt chất chứa buồn thương nên thấy bất cứ cái gì cũng gợi dậy bao nỗi đoạn trường.
- Câu 25 đến câu 28: Tất cả những hình ảnh, âm thanh như đang xoáy sâu vào tâm hồn, ăn mòn tâm trí của chinh phụ.
- Ẩn sâu trong đó là nỗi khát khao được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi:
- Thủ pháp trùng điệp liên hoàn tạo ra những hình ảnh lồng xoáy vào nhau, những lớp hình ảnh giao hòa.
- Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã đạt đến mức điêu luyện.
- Những khao khát thầm kín và mãnh liệt của người chinh phụ – đó cũng là những khát vọng trần thế và nhân bản của con người.
- Nghệ thuật của đoạn trích.
3. Kết bài
Khẳng định giá trị của đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.” trong thời đại ngày nay.