Đọc và Thực hành tiếng Việt
Bài tập 4. Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
Ông Sằn Nông
Ông Sằn Nông thường đi trong các rừng núi, gặp nhiều thứ quả, thứ hạt. Ông có phép mời được các loại hạt, đặc biệt là hạt thóc về nhà mình ở. Mùa xuân các hạt tự ra đồng mọc, cuối vụ lại trở về kho, về bồ. Năm ấy, Sẵn Nông đi xa không về kịp mùa lúa. Thóc ngô ngoài đồng đã chín, rủ nhau kéo về nhà. Bà vợ Sản Nông đang gội đầu, chưa mở được kho, sắp được bồ. Bà bảo thóc hãy đợi ngoài cửa. Thóc đợi mãi, là bà chỉ lo chải vuốt mái tóc của mình. Thóc giục giã ầm lên, vì trời nắng to, chúng chen chúc mãi ngoài cửa bị nóng bức quá. Chúng chen nhau rồi đánh nhau túi bụi đất cát tung mù lên. Gió thổi làm bụi bậm và một số hạt thóc bám lên đầu lên cổ bà. Bà tức quá, vác gậy đánh chúng, vừa đánh vừa chửi. Thóc kéo nhau ra ruộng, thể từ nay không bò về nữa.
Sản Nông trở về không biết làm thế nào. Ông mắng vợ rồi bỏ đi, ra ruộng dỗ dành, nhưng thóc không chịu. Buồn rầu, ông nắm lấy một nắm thóc bay thẳng lên trời. Nắm thóc ấy tung ra, rải rác thành các ngôi sao, còn chỗ tụ lại thì thành sông Ngân Hà bây giờ. Còn dưới trần gian từ đó, khi lúa chín, con người phải mang hải liềm ra gặt.
(Theo Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, tập 1, NXB Giáo dục, 2007, tr. 103)
1. Nêu các sự kiện chính của truyện Ông Sằn Nông.
2. Chỉ ra những lời kể mang tính suy nguyên trong văn bản.
3. Nhân vật chính trong truyện kể trên là ai? Nhân vật ấy được sáng tạo nhằm mục đích gì?
4. Trong tưởng tượng của con người thời xưa, các loại hạt được dùng làm lương thực thuở sơ khai có những đặc điểm gì? Sự tưởng tượng về các loại hạt đó thể hiện quan niệm gì của họ về thế giới?
5. Sự biến đổi trong đặc tính của thóc phản ánh những thay đổi nào trong cuộc sống của con người cổ sơ?
6. Sưu tầm một truyện thần thoại suy nguyên của dân tộc khác có nội dung tương tự với truyện Ông Sản Nông. So sánh và nhận xét về điểm tương đồng giữa hai tác phẩm.
Bài Làm:
1. Các sự kiện chính là:
- Ông Sằn Nông có phép mời được các loại hát, đặc biệt là hạt thóc về nhà mình ở.
- Khi đến mùa, thóc kéo nhau về nhà nhưng vợ Sằn Nông lại mải chải chuốt mái tóc mà không mở cửa kho khiến thóc chen rồi đánh nhau túi bụi. Vì vài hạt thóc bám lên đầu bà nên vợ Sằn Nông vác gậy vừa đánh vừa chửi khiến thóc giận kéo nhau ra ruộng.
- Ông Sằn Nông biết chuyện bèn ra ruộng dỗ dành nhưng không thành. Quá buồn, ông nắm thóc bay lên trời hóa thành những ngôi sao.
2. Những lời kể mang tính suy nguyên: giải thích cho việc con người khi đến mùa lúa chín phải ra ruộng gặt lúa.
- Sự hình thành các ngôi sao và sông ngân hà.
- Tập tục khi lúa chín, con người phải mang hái liềm ra gặt.
3. Nhân vật chính trong truyện kể trên là ông Sằn Nông nhằm giải thích hiện tượng tự nhiên (sao và sông ngân hà), và tập tục gặt lúa chín mang về nhà.
4. Trong tưởng tượng của con người thời xưa, các loại hạt được dùng làm lương thực thuở sơ khai có những đặc điểm: tự sinh trưởng, đến mùa thì chúng tự tìm về nhà, vào trong kho của nhà dân. Hơn hết, chúng cũng có cảm giác, cảm xúc và có thể “giao tiếp” với con người,... Sự tưởng tượng ấy thể hiện quan niệm của con người cổ sơ về thế giới “vạn vật hữu linh”...
5. Sự biến đổi trong đặc tính của thóc phản ánh những thay đổi: Con người đã biết tìm kiếm, mày mò, sáng tạo cái ăn, không còn phụ thuộc vào tự nhiên.
6. Truyện Thần Lúa của dân tộc Tày:
Ngày xưa có một người đàn bà nghèo, tuổi cao rồi mới sinh được một cậu con trai. Bà đặt tên con là Pọ Khâu (có nghĩa là Bố Lúa), ý mong mỏi con sẽ không phải ăn trái cây, lá rừng quanh năm suốt tháng như mình.
Pọ Khâu lớn lên rất khỏe. Sức vật ngã cả trâu đực.
Pọ Khâu rất yêu thương mẹ. Mẹ ốm nặng, Pọ Khâu lo lắm. Ai mách thuốc gì, ở đâu, dù phải leo đèo, lội suối, Pọ Khâu cũng đi. Nhưng không thuốc nào chữa khỏi. Thật ra, bà mẹ đói, thèm bát cơm.
Một hôm trên đường đi tìm lá thuốc cho mẹ, Pọ Khâu nằm nghỉ bên suối. Một con chim cu đất bay qua gáy:
Muốn mẹ khỏi đau
Lấy lúa cho mau
Về ăn thì khỏi.
Pọ Khâu giật mình, vùng dậy hỏi:
– Ở đâu có lúa, hỡi cu đất?
Chim cu lại gáy:
Yêu tinh mặt đỏ
Tích lúa đầy hang.
– Nó ở đâu? Pọ Khâu hỏi.
Cu đất hất mỏ chỉ ngọn núi cao rồi cất cánh bay đi. Bay được một quãng, cu đất quay lại, khẽ dặn:
Muốn giết yêu tinh
Phải rình lúc ngủ.
Pọ Khâu về nhà rèn một ngọn lao vừa dài, vừa nhọn, đi tìm yêu tinh. Anh đi hết chín châu, mười mường mới đến được ngọn núi cao, thấy vết chân nó chi chít trên sườn núi.
Anh theo vết chân, đến một cái hang rộng. May quá! Nó đang ngủ. Mặt nó đỏ như củ nâu chín, râu nó dài như rễ cây si. Nó ngáy to như sấm, thở phì phà phì phò làm cho cây cối nghiêng như có gió mạnh thổi. Người nó to bằng mười con voi.
Con yêu tinh vẫn ngáy như sấm, thở phì phà phì phò. Nó há miệng. Pọ Khâu nhanh như sóc, bám vào râu nhảy phắt lên cổ nó, phóng luôn mũi lao vào cuống họng yêu tinh. Nó kêu rống lên đau đớn rồi khạc khạc… Mũi lao phóng mạnh quá, cắm ngập vào cổ họng nó rồi. Nó giẫy giụa, máu chảy ào ra như suối.
Pọ Khâu bị nó hất một cái bay ra cửa hang. Anh ngất đi. Một lúc sau, tỉnh lại, anh vào hang thấy yêu tinh mặt đỏ đã nằm chết cứng.
Đúng như cu đất nói, thóc lúa chất đầy cả hang. Pọ Khâu xúc một gùi thóc mang về rồi gọi dân bản lên cùng lấy.
Pọ Khâu xay lúa, giã thành gạo, nấu cơm, làm bánh cho mẹ ăn. Quả nhiên, mẹ được ăn cơm, ăn bánh, bệnh giảm dần rồi khỏi hẳn. Cũng từ đó dân bản có thóc ăn, không ai phải ăn trái cây, lá rừng như trước nữa. Mọi người ra sức phát nương, trồng lúa, cuộc sống trong bản ấm no vui hẳn lên.
Về sau, để nhớ ơn Pọ Khâu, người dân tôn anh là Thần Lúa. Ngày giỗ ngày Tết bao giờ người ta cũng đặt trên bàn thờ một mâm gạo trắng.
Nhận xét:
Một câu chuyện lí giải nguyên nhân con người phải tự mình thu hoạch lúa và một câu chuyện lại chỉ ra nguồn gốc của những hạt lúa, song chúng đều thể hiện mong ước về cuộc sống ấm no, đủ đầy của con người. Con người muốn tìm cái ăn, tất yếu phải lao động, sáng tạo, mày mò, tìm kiếm.