Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:

Bài tập 5. Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:

Trong lựa chọn, đáng sợ nhất là đẩy người thân yêu của mình vào vai “thủ phạm” đã làm mình mù loà để tự huyễn hoặc thất bại đã qua. Tồi tệ nhất là tự tay đẩy sự lựa chọn đó vào tay ai khác không phải bản thân mình. Dối lừa nhiều nhất là kinh hoàng nhận ra ta mãi chẳng trưởng thành được vì cứ đưa tay cầu xin cuộc đời lựa chọn thay mình, để chẳng bao giờ phải soi gương xem mình đã hành xử ra sao trước hai ngả đường lạ lẫm. Khi chạy trốn những chọn lựa, ta chỉ là đứa trẻ mãi bơi trong cái bể cao su do người thân yêu thổi sẵn cho chơi trong sân nhà. Vậy, nếu mình phải tự chọn tất cả, và lỡ chân chọn sai thì sao? Tôi đã trải qua cảm giác khó chịu đó suốt nhiều tháng dài. Đầu tiên là đối mặt với ý nghĩ: Mình sai chứ không phải lỗi của ai hết. Thừa nhận sai lầm của chính mình khó hơn nói xin lỗi bạn bè. Tôi thường quá kiêu ngạo để nhận ra mình đã sai và nhu cầu tự xin lỗi đến như một cuộc vật lộn. Sau khi thừa nhận đó là một lựa chọn sai, tôi bắt đầu suy nghĩ vì sao mà mình chọn sai. Việc này có thể làm lúc nhàn rỗi. Tôi cứ nhấm nhẳng nhai cái sai lầm đó trong suốt nhiều năm, bởi nó là vật quy chiếu và giúp mình ngừng nhầm lẫn. Dù vậy, ào tôi có sai tiếp hay không. Nó chỉ ng nó chẳng giúp đảm bảo tôi có sai tiếp hay không. Nó chỉ ngăn những nhầm lẫn kéo tới và khiến tôi mù loà. Sau đó, lại phải chọn tiếp. Khi này, tôi đã ngẩng đầu lên, thở phào nhẹ nhõm vì mình không phải đổ lỗi cho cha mẹ về sai lầm của chính mình. Tôi không đẻ ra một nạn nhân để tự tha thứ cho mình vì đã hành xử ngu dốt, thiếu trách nhiệm. Thật may mắn vì tôi đã không cho cha mẹ quyền lựa chọn, họ đã không trở thành nạn nhân để tôi đổ lỗi. Mỗi chọn lựa hàm chứa một con đường và cơ hồ ta sẽ phải rải từng viên gạch cho con đường hiện ra sau bờ bãi xa mù. Ta chỉ là một kẻ dại khờ, đeo lên mặt tấm băng đen và dùng bàn tay dò dẫm trong bóng tối của tương lai, vừa đi vừa xếp những viên gạch xuống con đường trước mặt.

Khi sợ hãi phải chọn lựa, hãy nhớ rằng bất cứ ai cũng mù loà như mình và cũng đang đi với bàn tay vất vả, đôi chân mò mẫm trong đường hầm tối tăm ấy. Chẳng có cách nào khác ngoài lót gạch, bước đi và chịu đau.

1. Quan điểm của người viết trong văn bản là gì?

2. Quan điểm đó đã được triển khai thành những luận điểm chính nào?

3. Những trải nghiệm cá nhân được nhắc lại có tác dụng gì trong việc làm sáng tỏ quan điểm của người viết?

4. “Mỗi chọn lựa hàm chứa một con đường và cơ hồ ta sẽ phải rải từng viên gạch cho con đường hiện ra sau bờ bãi xa mù. Ta chỉ là một kẻ dại khờ, đeo lên mặt tấm băng đen và dùng bàn tay dò dẫm trong bóng tối của tương lai, vừa đi vừa xếp những viên gạch xuống con đường trước mặt". Bạn hiểu như thế nào về nhận định này của tác giả?

5. Bạn có đồng ý với quan điểm của tác giả không? Vì sao?

Bài tập 6. Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:

Khi tôi ở Mông-gô-me-ri (Montgomery), A-la-ba-ma (Alabama), tôi đã đến một hiệu bán giày, tên là hiệu giày Gô-rơ-đôn (Gordon). Trong hiệu này có một người giúp việc thường hay đánh giày cho tôi, và phải nói rằng xem anh đánh giày cho tôi thực sự là một trải nghiệm tuyệt vời. Anh ta dùng miếng giẻ đánh giày và bạn biết không, anh có thể làm cho miếng giẻ này bật ra âm thanh. Và tôi đã tự nhủ: “Đây thực sự là một tiến sĩ trong việc đánh giày". Bạn thân mến, điều tôi muốn nói với các bạn trong buổi sáng hôm nay, là nếu bạn là một người quét đường, hãy quét đường như thế Mi-ken-lăng-giơ (Michelangelo) đang vẽ tranh, hãy quét đường như thể Han-đeo (Handel) và Bét-tô-ven (Beethoven) đang soạn nhạc; hãy quét đường như thể Sếch-xpia (Shakespeare) đang làm thơ; hãy quét đường hăng say tới nỗi tất cả các thánh thần ở trên thiên đường và con người trên Trái Đất phải dừng lại và thốt lên rằng:Nơi đây có một người quét đường tuyệt diệu, người đã làm thật tốt công việc của mình. 

Nếu bạn không thể làm cây thông trên đỉnh đổi

Hãy làm một bụi cây trong thung lũng 

Là bụi cây tốt nhất trên sườn đồi

Nếu không thể thành một cái cây cao, thì hãy là một bụi cây

Nếu không thể làm thành đại lộ, thì hãy là một lối mòn

Nếu không thể làm mặt trời, hãy là một ngôi sao

Thắng bại của bạn không phụ thuộc vào tầm vóc

Hãy trở thành người tốt nhất bất kể bạn có là ai.

Và khi làm điều này, khi làm được trọn vẹn điều này, bạn đã làm chủ được chiều

1. Xác định luận điểm chính của tác giả.

2. Phân tích tác dụng của yếu tố tự sự được tác giả sử dụng trong văn bản.

3. Xác định biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn văn thứ hai. Phân tích giá trị của biện pháp tu từ đó.

4. Giọng điệu của người trần thuật trong văn bản có gì đặc biệt? Những yếu tố nào tạo nên giọng điệu đó? 

5. Theo bạn, “chiều dài của cuộc đời” ở đây nghĩa là gì?

6. Những nhận định của tác giả trong văn bản gợi cho bạn suy nghĩ gì về cuộc sống?

Bài tập 7. Đọc bài thơ sau và trả lời các câu hỏi:

Mâm ngọc, nhằm quý, giá mươi ngàn!

Bình vàng, rượu trong, cốc đáng vạn,

Dằn chén, ném đũa, nuốt không được Vung gươm bốn mặt, lòng mênh mang! Băng đầy sông, khó nỗi vượt Hoàng Hài Tuyết mù trời, không đường lên Thái Hàng! Rảnh rỗi buông câu bờ suối biếc, Đường gian nan! Đường gian nan!

Chợt cưỡi thuyền mơ bên thái dương.

Bao ngã rẽ? Nay đầu rồi gian nan hẳn có lúc, THẬT SỐNG Đè sóng cưỡi gió, hẳn có lúc, Treo thẳng buồm mây vượt bể khơi!

(Lý Bạch, Thơ Đường, Nam Trần tuyển chọn, tập 2, NXB Văn học, Hà Nội, 1962, tr. 82)

1. Phân tích ý nghĩa của các hình ảnh, biểu tượng trong bài thơ (bình vàng, rượu trong, mâm ngọc, nhằm quý, băng, tuyết, Hoàng Hà, Thái Hàng, thuyền, buồm mây).

2. Nhân vật trữ tình trong bài thơ được thể hiện qua các yếu tố nào? Phân tích sự vận động cảm xúc của nhân vật trữ tình trong bài thơ.

3. So sánh cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ Hành lộ nan của Lý Bạch và cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ Con đường không chọn của Rô-bớt Phờ-rót.

4. Hình ảnh con đường trong bài thơ ẩn dụ cho điều gì? So sánh với ẩn dụ về con đường trong bài thơ Con đường không chọn của Rô-bớt Phờ-rút.

5. Ba văn bản Con đường không chọn, Hành lộ nan, Một đời như kẻ tìm đường gợi cho bạn suy nghĩ gì về hành trình của con người trong cuộc đời? Liệu con người có thể chủ động lựa chọn và thực hiện được những hoài bão của mình?

Bài tập 8. Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:

“Điên rồ" là từ mọi người gọi An-tô-ni-ô Vi-xen-tê (Antonio Vicente), một người Bra-xin (Brazil) muốn trồng lại rừng ở xứ rừng. Bra-xin nổi tiếng có đến 60% diện tích rừng A-ma-dôn (Amazon), rừng nhiệt đới lớn nhất thế giới. Từ những năm 60 của thế kỉ trước, rừng A-ma-dôn bắt đầu bị thu hẹp bởi chính sách phát triển nông nghiệp của Bra-xin. Chính phủ khuyến khích đẩy mạnh chăn nuôi bò nên những chủ đồn điền tới chặt hạ rừng để trồng cỏ.

Từ Đông sang Tây, còn nhiều con người điên rồ, mơ mộng như vậy nữa. Tôi có thể kể đến cặp vợ chồng già Thơ-bát (Tubbat) và Thô-xơn-xa-gan (Tosontsagaan) đã mất 15 năm để biến sa mạc thành ốc đảo. Công việc của họ là bản trường ca chiến đấu với sa mạc, họ dùng xe máy chở nước để trồng loài cây xa-xo (saxaul) trên sa mạc, sa mạc biến công sức họ thành cát bụi bởi gió, cát và nắng nóng. Cây chết, họ lại tiếp tục trồng cây mới, làm hàng rào ngăn cát, xe máy hỏng thì đổi xe mới, không lùi bước. Sau 15 năm, hỏng 7 chiếc xe máy, họ đã trồng được 50 000 cây. Cây xa-xo chính là những cái bơm nước sinh học, có cây xa-xo, cỏ mọc lại, sự sống hồi sinh trên sa mạc. Tôi cũng có thể kể đến ông già 78 tuổi Vương Thiên Xương (Wang Tianchang) cùng người con trai Vương Ngân Cát (Wang Yinji) đã trồng cây trong suốt 30 năm để tạo nên một ốc đảo rộng 500 ha ở sa mạc Đảng Cách Lý (Tenggeli), đông bắc Trung Quốc. Ốc đảo cây ấy đã góp phần bảo vệ làng của họ khỏi sự tấn công của sa mạc. Tôi có thể kể đến kẻ điên rồ Ya-cu-ba Xa-va-đô-gô (Yacouba Sawadogo), người đã bị cười nhạo khi muốn trồng rừng ở nơi tất cả các tổ chức, nhà khoa học đã phải bó tay: vùng sa mạc Jóc-ki-na Pha-xó (Burkina F G Xa-ha-ra (Sahara) & Buốc-ki-na Pha-xô (Burkina Farso).

Và tôi còn có thể kể đến nhiều cái tên khác...

Những kẻ mơ mộng đó đã làm nên những kì tích mà hầu hết chúng ta không thể làm nổi. Nhưng ngay cả những chiến công của họ cũng là rất nhỏ bé nếu đem so với những gì con người đã gây ra cho thiên nhiên. Những kẻ mơ mộng ấy muốn rằng càng ngày càng có thêm nhiều người mơ mộng, để trồng thêm dù chỉ một cái cây, và nhiều cây sẽ thành một khu rừng.

Con đường vạn dặm nào cũng bắt đầu từ những bước đi đầu tiên. Trồng một cái cây, làm tổ cho bọ rùa, hay trồng hoa cho lũ ong, biết đâu một ngày nào đó sẽ có một khu rừng mọc lên?

(Theo CANDID, Đời luôn sẵn kẻ mộng mơ, báo Tuổi trẻ cuối tuần, ngày 5/3/2018)

1. Luận điểm chính được tác giả trình bày trong văn bản là gì? Luận điểm đó được khai triển dựa trên những lí lẽ, bằng chứng nào?

2. Tóm tắt những nội dung chính trong văn bản bằng một sơ đồ.

3. Những nhân vật, sự kiện nào được đề cập tới trong văn bản? Bạn có suy nghĩ gì về lựa chọn của các nhân vật đó? 

4. Phân tích ý nghĩa của các phương tiện phi ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản. 

5. Thông điệp bạn nhận được sau khi đọc văn bản này là gì? Thông điệp đó tác động như thế nào đến nhận thức của bạn về bản thân và cuộc sống?

Bài Làm:

Bài tập 5.

1. Quan điểm của người viết trong văn bản: Không nên trao quyền lựa chọn cho người khác, hãy tự lựa chọn và bước đi trên con đường của mình, dù phải vấp ngã và chịu đau đớn chính vì những lựa chọn đó.

2. Quan điểm trên của người viết được triển khai thành các luận điểm chính:

– Không nên trao quyền lựa chọn vào tay người khác. - – Cần dũng cảm tự lựa chọn, cần chấp nhận sự sợ hãi, sai lầm, vấp ngã để trưởng thành.

3. Những trải nghiệm cá nhân của người viết về sự lựa chọn sai lầm của bản thân là những bằng chứng cụ thể, sinh động, giúp chứng minh cho luận điểm: Cần dũng cảm tự lựa chọn và chấp nhận sai lầm, thất bại của mình.

4. Tác giả nêu nhận định thông qua các hình ảnh ẩn dụ. Chọn lựa được ví như một con đường, mỗi hành động tiếp theo sau chọn lựa được ví như việc rải từng viên gạch cho con đường hiện ra sau bờ bãi xa mù, có nghĩa là không ai có thể chỉ cho ta nên đi thế nào, cũng như lát gạch cho ta đi, ta cần tự lựa chọn và tự bước đi trên con đường của chính mình. Biện pháp so sánh được sử dụng trong câu:”Ta chỉ là một kẻ dại khờ, đeo lên mặt tấm băng đen và dùng bàn tay dò dẫm trong bóng tối của tương lai, vừa đi vừa xếp những viên gạch xuống con đường trước mặt” làm nổi bật nhận thức rằng tương lai là cái mơ hồ, không ai có thể biết trước, mỗi người đều không đoán định được con đường sắp tới của mình, nhưng dù vậy, vẫn phải tự bước đi. Nói chung, cốt lõi của nhận định là: Dù không thể biết trước tương lai sẽ ra sao, nhưng mỗi cá nhân đều phải tự lựa chọn, tự bước đi, chấp nhận vấp ngã và tự chịu trách nhiệm cho những lựa chọn của mình.

5. Đây là một câu hỏi mở. Mỗi HS có thể có câu trả lời khác nhau.

Bài tập 6.

1. Luận điểm chính của tác giả: Làm bất cứ công việc gì, dù là bình thường nhất, cũng cần làm tốt nhất công việc của mình, khi đó, mỗi người sẽ sống trọn vẹn chiều dài của cuộc đời.

2. Tác giả đã kể lại câu chuyện có thật mà mình đã chứng kiến về người thợ đánh giày – người đã đánh giày một cách say mê và hoàn hảo, khiến cho công việc này biến thành một kiệt tác nghệ thuật. Tác giả ngầm gửi tới người đọc một thông điệp: Khi ta làm bất cứ việc gì, chỉ cần ta thực hiện nó một cách chủ tâm, bằng sự say mê, chuyên nghiệp, thì công việc đó đều toát lên vẻ đẹp, đều tạo ra giá trị.

3. Trong đoạn văn thứ hai, tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh. Việc quét đường được so sánh với Mi-ken-lăng-giơ đang vẽ tranh, Han-đeo và Bét-tô-venđang soạn nhạc; Sếch-xpia đang làm thơ. Khi so sánh công việc quét đường, vốn là một công việc rất thầm lặng, bình thường trong xã hội với việc sáng tạo nên kiệt tác của những nghệ sĩ nổi tiếng bậc nhất trên thế giới, tác giả nhằm thể hiện thông điệp: Mỗi công việc dù là giản dị, bình thường nhất đều có ý nghĩa, sánh ngang tầm với những công việc lớn lao, vĩ đại nhất, nếu như thực hiện nó một cách say mê, bằng cả trái tim. Trong mỗi con người, ai cũng có phẩm chất của người nghệ sĩ, của người sáng tạo, bởi bằng lao động, chúng ta tự sáng tạo nên cuộc sống của mình, trong từng khoảnh khắc. Ẩn sau hình tượng so sánh đó là một thông điệp về sự bình đẳng và là lời kêu gọi mỗi người hãy sống trọn vẹn nhất với mỗi phút giây trong cuộc đời mình.

4. Giọng điệu của người trần thuật trong văn bản là giọng điệu vừa thân mật, vừa hào sảng. Giọng điệu thân mật, tâm tình được tạo nên bởi người trần thuật xưng “tôi” vừa đối thoại, trò chuyện với người đọc, vừa chia sẻ chân thành những suy nghĩ của mình. Giọng điệu hào sảng, đầy nhiệt huyết và lôi cuốn được tạo nên bởi cấu trúc câu cầu khiến, biện pháp điệp ngữ, hình ảnh so sánh rất bay bổng, đẹp đẽ. Giọng điệu này là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng làm nên sức thuyết phục mạnh mẽ trong các bài diễn văn của Mác-tin Lu-dơ Kinh

5."Chiều dài của cuộc đời" ở đây nghĩa là kích thước của sức mạnh bên trong con người, được xây dựng dựa trên việc chấp nhận con người mình, hoàn cảnh sống của mình và sống trọn vẹn với những gì mình có, mỗi việc mình làm.

6. Đây là một câu hỏi mở. Mỗi HS có thể có một câu trả lời khác nhau.

Bài tập 7.

1. Các hình ảnh bình vàng, rượu trọng, mâm ngọc, nhằm quý biểu trưng cho danh lợi, quyền chức, đời sống xa hoa nơi cung đình. Ngược lại, các hình ảnh băng, tuyết, Hoàng Hà, Thái Hàng lại biểu trưng cho đường đời đầy khó khăn, thử thách. Thuyền, buồm mây ở đây biểu trưng cho lí tưởng, hoài bão được tự do tung hoành ngang dọc, vượt qua các thử thách để thực thi chỉ lớn.

2. Nhân vật trữ tình trong bài thơ được thể hiện qua các hành động: “Dân chén, ném đũa, nuốt không được”, “Vung gươm bốn mặt, lòng mênh mang”, “Rảnh rỗi buông câu bờ suối biếc”, “Chợt cưỡi thuyền mơ bên thái dương”, “Đè sóng cưỡi gió, hẳn có lúc”, “Treo thẳng buồm mây vượt bể khơi”.

Trong bốn câu thơ đầu, nhân vật trữ tình thể hiện cảm xúc phẫn uất, chua chát khi phải sống trong một cuộc sống xa hoa nhưng tù túng và khát vọng tự do tung hoành ngang dọc (“Dằn chén, ném đũa, nuốt không được/ Vung gươm bốn mặt, lòng mênh mang”). Bốn câu thơ tiếp theo thể hiện niềm mơ ước vượt thoát ra khỏi mọi khó khăn, trở ngại của cuộc sống để sống một cuộc sống tự do, theo đuổi lí tưởng, cũng có thể hiểu là khát vọng được phụng sự cho một bậc minh quân ("Chợt cưỡi thuyền mơ bên thái dương”). Hai câu thơ tiếp theo lại là một lời tự thán và câu hỏi đầy băn khoăn về những lựa chọn mà mình nên theo đuổi. Hai câu thơcuối cùng với một giọng điệu hào hùng, đã khẳng định ý chí và khát vọng mãnh liệt muốn vượt qua mọi trở ngại, thách thức. Có thể nói, mạch cảm xúc xuyên suốt bài thơ là sự xung đột giữa một bên là con người mang lí tưởng cao đẹp, khát vọng tự do và một bên là cuộc sống chật chội, tù túng, đầy những khó khăn, thách thức, trong đó tất cả những cám dỗ của vật chất hay những trở ngại trên đường đời đều không thể đè bẹp được hoài bão và ý chí kiên cường của con người.

3. Có thể thấy, nhân vật trữ tình trong cả hai bài thơ đều được miêu tả trong trạng thái đứng trước con đường nhiều lối rẽ, nhiều lựa chọn. Nhưng, cảm xúc, tâm thế của hai nhân vật trữ tình rất khác nhau. Trong bài thơ Hành lộ nan của Lý Bạch, nhân vật trữ tình thể hiện một ý chí mạnh mẽ và lựa chọn quyết liệt để đi một con đường dẫu nhiều sóng gió, còn trong bài Con đường không chọn, nhân vật trữ tình lại hiện lên như một kẻ đầy băn khoăn, do dự, phân vân với mỗi lựa chọn của mình. Hai trạng thái đó cũng là những trạng thái nhân sinh phổ quát của con người nói chung khi đứng trước những lối rẽ khác nhau trong cuộc đời mình.

4. Hình ảnh con đường trong bài thơ được miêu tả thông qua các chi tiết:“Băng đầy sông, khó nỗi vượt Hoàng Hà!/ Tuyết mù trời, không đường lên Thái Hàng! trong lời cảm thán: “Đường gian nan. Đường gian nan!/ Bao ngả rẽ? Nay đâu rồi?". Qua những chi tiết và lời cảm thán này, có thể thấy con đường ở đây tượng trưng cho đường đời nhiều khó khăn, chông gai, nhiều ngả rẽ, thử thách ý chí của con người. Trong bài thơ Con đường không chọn, con đường được miêu tả qua các chi tiết: “lối rẽ trong rừng vàng rực lá”, “khúc quanh giữa bụi bờ chìm khuất”, “cỏ rậm muốn mời chân bước”, “thảm lá chưa chân ai hằn dấu thẫm”. Con đường ở đây được miêu tả như một hành trình vô định, mơ hồ, với nhiều lối rẽ mời gọi bước chân của con người. Cùng sử dụng hình tượng con đường để miêu tả hành trinh cuộc đời, nhưng ý nghĩa và những liên tưởng, cảm xúc mà hai hình tượng gợi nên ất khác nhau, thể hiện những tâm t trong hai bài thơ lại rất khác nhau, thể hiện những tâm trạng và lựa chọn rất khác nhau của nhân vật trữ tình.

5. Đây là một câu hỏi mở. Mỗi HS có thể có câu trả lời riêng của mình. Có thể thấy, trong văn bản Một đời như kẻ tìm đường, tác giả cho rằng cuộc đời là một hành trình một chiều, được dẫn dắt bởi những động lực mà con người khó có thể biết, và mỗi lựa chọn của con người không quan trọng bằng việc người đó sống như thế nào, ứng xử ra sao với mỗi lựa chọn đó của mình. Trong khi đó, ở bài thơ Hành lộ nan, tác giả lại thể hiện quan niệm: Đường đời nhiều gian nan, thử thách, nhiều khúc quanh nhưng không gì có thể khuất phục được khát vọng tự do và ý chí lớn lao của con người. Ở bài thơ Con đường không chọn, cuộc đời lại được ví như một hành trình nhiều ngả rẽ, dù chọn lối nào, ta cũng không thoát khỏi trạng thái phân vân, do dự. Mỗi tác phẩm đều thể hiện những quan niệm khác nhau về cuộc sống, về sự chọn lựa cũng như những hành xử khác nhau đối với mỗi chọn lựa của con người.

1. Luận điểm chính được tác giả trình bày trong văn bản là: Mỗi hành động rất nhỏ của con người để bảo vệ môi trường đều có thể tạo nên một sự thay đổi lớn lao cho Trái Đất.

Luận điểm này được triển khai dựa trên các bằng chứng: Câu chuyện về An-tô-ni-ô Vi-xen-tê ở Bra-xin muốn trồng lại rừng ở xứ rừng, câu chuyện về cặp vợ chồng già Thơ-bát và Thô-xơn-xa-gan mất 15 năm biển sa mạc thành ốc đảo, câu chuyện về ông già 78 tuổi Vương Thiên Xương cùng người con trai Vương Ngân Cát đã trồng cây trong suốt 30 năm để tạo nên một ốc đảo rộng 500 ha ở sa mạc Đằng Cách Lý, đông bắc Trung Quốc. Đây là những bằng chứng cụ thể, khách quan, có thể kiểm chứng và đồng thời gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc, vì thế là những bằng chứng rất có sức thuyết phục.

2. Có nhiều cách để sơ đồ hoá các thông tin trong văn bản. Dưới đây là một gợi ý:

 

3. Tác giả đề cập các nhân vật, sự kiện có thực trong cuộc sống: An-tô-ni-ô Vi-xen-tê ở Bra-xin đã có ý tưởng “điên rồ” muốn trồng lại rừng ở xứ rừng, khi diện tích đất rừng ngày càng thu hẹp lại; cặp vợ chồng già Thơ-bát và Thô-xơn-xa-gan đã mất 15 năm biến sa mạc thành ốc đảo; ông già 78 tuổi Vương Thiên Xương cùng con trai đã trồng cây suốt 30 năm để tạo nên một ốc đảo ở vùng đông bắc Trung Quốc. Các nhân vật này đã lựa chọn một cách sống khác, có thể đi ngược lại với đám đông, nhưng họ đã kiên trì theo đuổi lựa chọn đó trong suốt cuộc đời mình, và đã làm nên những kì tích vĩ đại. Đây có thể nói là những câu chuyện truyền cảm hứng, khiến cho ta có thể dũng cảm và kiên trì hơn khi theo đuổi những lựa chọn của mình.

4. Văn bản sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ là các số liệu. Các con số như “15 năm trồng cây để biến sa mạc thành ốc đảo”, “trồng cây trong suốt 30 năm” cho thấy sự kiên trì của các nhân vật trong câu chuyện. Các con số “50.000 cây”, “ốc đảo rộng 500 ha ở sa mạc Đẳng Cách Lý” cho thấy thành tích phi thường của các nhân vật trong các câu chuyện. Có thể nói, các số liệu cụ thể, xác thực, có thể kiểm chứng này đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối với người đọc.

5. Đây là một câu hỏi mở. Mỗi HS có thể đưa ra câu trả lời khác nhau. Có thể tham khảo gợi ý:

– Số phận của Trái Đất phụ thuộc vào hành động của mỗi người. Nếu mỗi người đều kiên trì gìn giữ sự sống trên Trái Đất thì có thể làm cho Trái Đất hồi sinh.

– Hãy kiên trì và quyết tâm theo đuổi lí tưởng sống đúng đắn của mình, dù có thể bị coi là khác biệt, thậm chí “điên rồ”

– Khi quyết tâm và kiên trì thực hiện những việc nhỏ, ta có thể tạo nên những thành quả lớn.

Xem thêm Bài tập & Lời giải

Trong: Giải SBT bài 9: Hành trang cuộc sống

Đọc và Thực hành tiếng Việt

Bài tập 1. Đọc lại văn bản Về chính chúng ta của Các-lô Rô-ve-li trong SGK Ngữ văn 10, tập hai (tr. 100 – 102) và trả lời các câu hỏi:

1. “Khi hiểu biết của chúng ta tăng lên, chúng ta đã biết rằng sự tồn tại của chúng ta chỉ là một phần của vũ trụ, và là phần rất nhỏ bé trong đó”. Tìm các bằng chứng mà tác giả đã sử dụng để chứng minh cho luận điểm của mình. Bạn nhận xét gì về các bằng chứng đó?

2. Vì sao tác giả cho rằng tri thức của chúng ta chung quy đều phản ánh thế giới?

3. Chỉ ra cách lập luận mà tác giả đã sử dụng để bảo vệ cho luận điểm:“Thông tin mà một hệ vật lí này có về hệ vật lí khác không có gì thuộc về ý thức chủ quan hết: nó chỉ là mối liên quan mà vật lí định ra giữa trạng thái của vật này với trạng thái của vật khác" Theo bạn, cách lập luận đó có thuyết phục không? Vì sao?

4. “Tại đấy, bên bờ của những gì chúng ta đã biết, tiếp giáp với đại dương mênh mông những gì chưa biết, rực sáng lên vầng hào quang của sự huyền bí và vẻ đẹp của thế giới. Thật là quyến rũ đến mê hồn”. Xác định biện pháp tu từ trong đoạn trích và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ đó bị bài thâu hơn đường không chọn tron

Bài tập 2. Đọc lại hai bản dịch bài thơ Con đường không chọn trong SGK Ngữ văn 10, tập hai (tr. 104 – 105) và trả lời các câu hỏi:

1. Hình ảnh trung tâm của bài thơ là gì? Nó đã được nhân vật trữ tình nói đến như thế nào?

2. Vì sao nhân vật trữ tình (“tôi” – kẻ lữ hành) lại phân vân trước hai lối rẽ của con đường trong rừng thu?

3. Phải chăng sau nhiều lưỡng lự, suy tính, nhân vật trữ tình đã hoàn toàn yên tâm với việc lựa chọn lối rẽ của mình? Những dấu hiệu, chi tiết nào trong bài thơ có thể giúp bạn giải đáp được câu hỏi này?

4. Tự hứa hẹn với mình rồi lại thấy sự hứa hẹn đó không lấy gì làm chắc chắn – điều gì đã khiến cho “tôi” rơi vào tình trạng ít tin tưởng ấy? Bạn nhận xét thế nào về đặc điểm con người của “tôi” được bộc lộ qua khổ thơ thứ ba?

5. Đang trong thời điểm hiện tại, “tôi” đã vội nghĩ về một ngày xa xôi ở phía trước. Có phải tâm trạng của “tôi” trong ngày ấy chỉ tràn ngập sự tiếc nuối hay không? Hãy cho biết cảm nhận và lí giải của bạn về vấn đề này.

6. Bạn hiểu như thế nào về ý thơ toát lên từ hai dòng cuối của tác phẩm? Hãy tưởng tượng và miêu tả cảm giác của nhân vật trữ tình khi thốt lên từ “khác biệt” trong bản dịch 2 (tr. 105).

7. Nêu nhận xét khái quát về mối quan hệ giữa hình ảnh con đường và hình ảnh nhân vật trữ tình trong bài thơ.

8. Bạn đã liên hệ tới bản thân như thế nào khi trải nghiệm cùng bài thơ? Nếu điều bạn tâm đắc nhất với tác phẩm Con đường không chọn của Rô-bớt Phờ-rút.

Bài tập 3. Đọc lại văn bản Một đời như kẻ tìm đường trong SGK Ngữ văn 10, tập hai (tr. 109) đoạn từ”Vào mỗi khúc quanh của cuộc đời mình, đến "thấy được thứ mình đi tìm” và trả lời các câu hỏi:

1. Nêu nội dung chính của mỗi đoạn văn.

2. Phân tích tác dụng của những biện pháp tu từ được sử dụng trong các

3. Theo bạn, khi viết văn bản này, tác giả đang ngầm đối thoại với ai?

4. Giọng điệu của tác giả trong các đoạn văn này là gì? Những yếu tố nào tạo nên giọng điệu đó?

5. “Đi đường nào rồi cũng có thể thành công, chọn lối nào rồi cũng có khả năng đạt hạnh phúc, vì hạnh phúc và thành công không tuỳ thuộc vào con đường chúng ta đi, mà vào tâm trạng tự tại của chúng ta, cũng như vào những giá trị mà chúng ta gieo ngay trên những nẻo đường đã đi qua”. Bạn có đồng ý với nhận định này của tác giả không? Vì sao?

Bài tập 4. Đọc lại văn bản Mãi mãi tuổi hai mươi của Nguyễn Văn Thạc trong SGK Ngữ văn 10, tập hai (tr. 121 – 123) và trả lời các câu hỏi: nhiều là người trên thu các cảnh hôn

1. Tìm các chi tiết miêu tả người trần thuật xưng “tôi” trong văn bản. Những chi tiết đó cho thấy đặc điểm gì của người trần thuật xưng “tôi”?

2. Sự kiện chính trong văn bản là gì? Sự kiện đó được quan sát từ điểm nhìn nào? Cách sử dụng điểm nhìn đó có tác dụng gì?

3. Giọng điệu trần thuật của văn bản có gì đặc biệt? Những yếu tố nào tạo nên giọng điệu trần thuật đó?

4. Các sự kiện, cảm xúc, liên tưởng trong văn bản được sắp xếp, tổ chức theo cách nào?

5. Văn bản cho bạn biết thêm điều gì về cuộc sống của thế hệ thanh niên trongcuộc kháng chiến chống Mỹ?

6. Thông điệp bạn nhận được từ văn bản là gì? Liệu những thông điệp đó còn có ý nghĩa với đời sống của bạn hay không? Vì sao?

7.“Anh sinh viên quen màu trắng áo của cánh cò, quen màu xanh da trời tháng nắng... Mình trút bỏ không thương tiếc, và trìu mến khoác lên mình màu xanh ấy. Màu xanh của núi đồi và thảo nguyên, của ước mơ và hi vọng. Màu xanh bất diệt của sự sống.. Bạn nghĩ gì về lựa chọn của người trần thuật xưng “tôi” trong văn bản?

 

 

Xem lời giải

Viết

Hãy tưởng tượng một ngày nào đó bạn cần giới thiệu về bản thân trong một bức thư xin việc làm. Hãy viết một bài luận về bản thân để tự giới thiệu mình trong bức thư đó.

 

Xem lời giải

Nói và nghe

Bài tập 1. Biểu đồ dưới đây đề cập đến vấn đề gì? Chuẩn bị một bài thuyết trình về vấn đề đó.

Số liệu ước tính mô hình hoá của ILO, tháng 11/2019. Thanh niên được định nghĩa là những người trong độ tuổi từ 15 đến 24.

Bài tập 2. Thuyết trình những nội dung bạn đã chuẩn bị trong bài tập 1. Sử dụng các phương tiện phi ngôn ngữ trong bài thuyết trình của bạn.

 

Xem lời giải

Xem thêm các bài Giải SBT ngữ văn 10 tập 2 kết nối tri thức, hay khác:

Xem thêm các bài Giải SBT ngữ văn 10 tập 2 kết nối tri thức được biên soạn cho Học kì 1 & Học kì 2 theo mẫu chuẩn của Bộ Giáo dục theo sát chương trình Lớp 10 giúp bạn học tốt hơn.

Lớp 10 | Để học tốt Lớp 10 | Giải bài tập Lớp 10

Giải bài tập SGK, SBT, VBT và Trắc nghiệm các môn học Lớp 10, dưới đây là mục lục các bài giải bài tập sách giáo khoa và Đề thi chi tiết với câu hỏi bài tập, đề kiểm tra 15 phút, 45 phút (1 tiết), đề thi học kì 1 và 2 (đề kiểm tra học kì 1 và 2) các môn trong chương trình Lớp 10 giúp bạn học tốt hơn.

Lớp 10 - Kết nối tri thức

Giải sách giáo khoa

Giải sách bài tập