1. NHẬN BIẾT (5 câu)
Câu 1: Hãy trình bày những hiểu biết của em về văn bản “Đổi tên cho xã” (tác giả, thể loại, nội dung,…)
Câu 2: Hãy trình bày những thông tin cơ bản về tác giả Lưu Quang Vũ.
Câu 3: Hãy nêu những hiểu biết của em về đặc điểm của hài kịch.
Câu 4: Nội dung chính của văn bản “Đổi tên cho xã” là gì? Nội dung đoạn trích này liên quan như thế nào với tên vở kịch “Bệnh sĩ”?
Câu 5: Quan sát văn bản và chỉ ra cách trình bày kịch bản có gì khác với cách trình bày một truyện ngắn, bài kí hoặc thơ. Nhận biết các chỉ dẫn sân khấu (các dòng chữ in nghiêng đặt trong ngoặc đơn) và chức năng của các chỉ dẫn ấy.
Bài Làm:
Câu 1:
- Tác giả: Lưu Quang Vũ
- Thể loại: hài kịch
- Văn bản được trích từ vở kịch “Bệnh sĩ”.
- Nội dung: Văn bản là về cuộc họp đổi tên xã và các chức danh, phòng ban từ đơn giản, thân thuộc trở nên “cao sang”, “hiện đại”. Những điều giả tạo, lố bịch này gây nên tiếng cười cho người đọc và lên án bệnh sĩ, thói ảo tưởng.
Câu 2:
Tham khảo:
- Lưu Quang Vũ (17 tháng 4 năm 1948 – 29 tháng 8 năm 1988) là một nhà soạn kịch,nhà đạo diễn sân khấu người Việt Nam.
- Lưu Quang Vũ sinh tại xã Thiệu Cơ, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ nhưng quê gốc lại ở quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, là con trai nhà viết kịch Lưu Quang Thuận và bà Vũ Thị Khánh, và tuổi thơ sống tại Phú Thọ cùng cha mẹ. Khi hoà bình lập lại (1954) gia đình ông chuyển về sống tại Hà Nội. Thiên hướng và năng khiếu nghệ thuật của ông đã sớm bộc lộ từ nhỏ và vùng quê trung du Bắc Bộ đó đã in dấu trong các sáng tác của ông sau này.
- Từ 1965 đến 1970 ông nhập ngũ, phục vụ trong Quân chủng Phòng không-Không quân. Đây là thời kỳ thơ Lưu Quang Vũ bắt đầu nở rộ.
- Từ 1970 đến 1978: xuất ngũ và làm đủ mọi nghề để mưu sinh, làm ở Xưởng Cao su Đường sắt do Tạ Đình Đề làm Giám đốc, làm hợp đồng cho nhà xuất bản Giải phóng, chấm công trong một đội cầu đường, vẽ pa-nô, áp-phích,...
- Từ 1978 đến 1988: Lưu Quang Vũ làm biên tập viên Tạp chí Sân khấu, bắt đầu sáng tác kịch nói với vở kịch đầu tay Sống mãi tuổi 17 viết lại theo kịch bản của Vũ Duy Kỳ.
- Các tác phẩm của ông đã để lại một dấu ấn đáng kể trong lòng công chúng Việt Nam. Tác phẩm ông nổi bật lên từ những năm sau chiến tranh, đặc biệt là những năm 80. Ông đã từng sống những năm tháng tuổi trẻ trong chiến tranh, vào bộ đội chiến đấu và trở về sống trong một thời kỳ khó khăn của nước nhà: thời hậu chiến, kinh tế bao cấp với chồng chất khó khăn, cơ cực. Các vở kịch, truyện ngắn, thơ của Lưu Quang Vũ giàu tính hiện thực và nhân văn cũng như in đậm dấu ấn của từng giai đoạn trong cuộc sống của ông. Với tuổi đời còn khá trẻ, 40 tuổi ông đã là tác giả của gần 50 vở kịch và hầu hết các vở kịch của ông đều được các đoàn kịch, chèo gây dựng thành công dưới sự chỉ đạo của nhiều đạo diễn nổi tiếng. Rất nhiều các tác phẩm của ông đã làm sôi động sân khấu Việt nam thời kỳ đó như: Hồn Trương Ba da hàng thịt, Lời thề thứ 9, Bệnh sĩ, Khoảnh khắc và vô tận, Ông không phải bố tôi, Tôi và chúng ta, Tin ở hoa hồng, Nàng Sita, v.v. Vở kịch đầu tay "Sống mãi tuổi 17" được trao tặng Huy chương vàng Hội diễn sân khấu. Lưu Quang Vũ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 (năm 2000) về nghệ thuật sân khấu.
- Thơ Lưu Quang Vũ không chỉ bay bổng, tài hoa mà còn giàu cảm xúc, trăn trở, khát khao. Rất nhiều bài thơ của anh được bạn đọc yêu thích như: Và anh tồn tại, Tiếng Việt, Vườn trong phố, Bầy ong trong đêm sâu.... Ông còn là tác giả của nhiều truyện ngắn mang đậm phong cách riêng.
Câu 3:
- Hài kịch là một thể loại kịch dùng biện pháp gây cười để chế giễu các tính cách và hành động xấu xa, lố bịch, lỗi thời của con người.
- Nhân vật của hài kịch là đối tượng của tiếng cười, gồm những hạng người hiện thân cho các thói tật xấu hay những gì thấp kém trong xã hội. Tính cách của nhân vật hài kịch được thể hiện qua những biến cố dẫn đến sự phơi bày, phê phán cái xấu.
- Hành động trong hài kịch là toàn bộ hoạt động của các nhân vật (bao gồm lời thoại, điệu bộ, cử chỉ,...) tạo nên nội dung của tác phẩm hài kịch. Hành động thể hiện qua lời thoại dưới các dạng: tấn công – phân công; thăm dò – lảng tránh; chất vấn – chối cãi; thuyết phục – phủ nhận/ bác bỏ; cầu xin – từ chối;...
- Xung đột kịch thường nảy sinh dựa trên sự đối lập, mâu thuẫn tạo nên tác động qua lại giữa các nhân vật hay các thế lực. Có nhiều kiểu xung đột: xung đột giữa cái cao cả với cái cao cả, giữa cái cao cả với cái thấp kém, giữa cái thấp kém với cái thấp kém,... Trong hài kịch, do đặc điểm, tính chất của các nhân vật, xung đột thường diễn ra giữa cái thấp kém với cái thấp kém.
- Lời thoại là lời của các nhân vật hài kịch nói với nhau (đối thoại), nói với bản thân (độc thoại) hay nói với khán giả (bàng thoại), góp phần thúc đẩy xung đột hài kịch phát triển.
- Lời chỉ dẫn sân khấu là những lời chú thích ngắn gọn của tác giả biên kịch (thường để trong ngoặc đơn) nhằm hướng dẫn, gợi ý về cách bài trí, xử lí âm thanh, ánh sáng, việc vào – ra sân khấu của diễn viên thủ vai nhân vật cùng trang phục, hành động, cử chỉ, cách nói năng của họ,...
- Thủ pháp trào phúng: Hài kịch thường sử dụng các thủ pháp trào phúng như phóng đại tính phi lô-gíc, tính không hợp tình thế trong hành động của nhân vật (hành vi, lời nói, cử chỉ, trang phục,...); các thủ pháp tăng tiến, giễu nhại, mỉa mai; lối nói hóm hỉnh, lối chơi chữ, lối nói nghịch lí;...
Câu 4:
- Nội dung chính của văn bản: Thông qua cuộc họp đổi tên xã và các phòng ban một cách không thực tế và lố bịch, tác giả đã cho thấy tính sĩ diện, háo danh, bên ngoài thì tỏ ra có tầm nhìn chiến lược, giỏi giang nhưng bên trong thì ngu dốt, chẳng có hiểu biết thực tế gì cả của không chỉ ông chủ tịch xã mà còn ở những người khác.
=> Nội dung đoạn trích liên quan trực tiếp đến tên vở kịch “Bệnh sĩ”.
Câu 5:
- Sự khác nhau về cách trình bày vở kịch với cách trình bày truyện ngắn, bài kí, bài thơ: Vở kịch phân tách mỗi lời nói của nhân vật thành một dòng, có ghi rõ ở đầu dòng tên nhân vật, không hình thành các đoạn văn ngoại trừ phần chỉ dẫn sân khấu nêu bối cảnh hoặc hoạt động. Trong khi đó, truyện ngắn hay kí thì trình bày thành các đoạn văn, lời thoại cũng được lồng ghép các đoạn văn; còn thơ thì trình bày thành các dòng với những đặc điểm hình thức khác biệt hoàn toàn.
- Các chỉ dẫn sân khấu trong văn bản:
+ Phần in nghiêng ở đầu văn bản: nêu lên bối cảnh, hoạt động ban đầu của Cảnh 1 trong vở kịch.
+ Phần in nghiêng sau đó: trình bày các hoạt động của nhân vật.
=> Chỉ dẫn sân khấu nhằm trình bày các thông tin không nằm trong hành động nói của nhân vật.